Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Về thơ Bùi Giáng, nói thế nào cho phải ?

Trần Nhuận Minh
Thứ tư ngày 27 tháng 11 năm 2013 8:04 PM

 

 TNc:  Trang trannhuong.com xin được chào mừng trang web của Hội Văn học nghệ thuất Thái Nguyên-tại địa chỉ: vannghethainguyen.vn. Mặc dù đang trong thời gian thử nghiệm nhưng đã được bạn đọc yêu mến bởi sự phong phú về nội dung và thân thiên, trang nhã về giao diện.
Hôm nay trang nhà cóp bài về thơ Bùi Giáng của nhà thơ Trần Nhuận Minh từ trang VNTN. Đây là ý kiến nhận định riêng của ông, coi đó là một kênh trong nhiều kênh tiếp cận thơ Bùi Giáng...Chúng tôi mong nhận được nhiều ý kiến trao đổi...


VNTN - Tôi đọc thơ Bùi Giáng cũng được khoảng 200 -300 bài và tương đối hệ thống trong mươi năm trở lại đây.
Tôi cũng đọc rải rác hầu hết các bài viết về Bùi Giáng. Nói chung là hơi giông giống nhau của nhiều tác giả. Có người so ông với Nguyễn Du. Có người cho rằng, phải đến ông thì thơ Việt Nam mới có biển có trời. Sự sáng tạo trong ngôn ngữ thơ Bùi Giáng là rất rõ, nhưng ca ngợi đến mức ấy, tôi cho là quá lời. Và như thế, dù không muốn, cũng là cách làm hại ông. Gần đây là 33 bài viết của 32 nhà văn được tập hợp trong Bùi Giáng trong cõi người ta. ở tập sách này, trong 30 - 31 bài ca ngợi Bùi Giáng; có đến 7 - 8 bài coi ông là thiên tài, đặc biệt trong sáng tạo ngôn ngữ, là người nhảy múa trong chữ nghĩa, với những thăng hoa, huyền ảo, lộng lẫy sắc hương, vi diệu mênh mang vô tận vô cùng. Tôi nghĩ cũng không đến mức như thế. Trong đó, hai bài của nhà văn Đặng Tiến: Sơ thảo tiểu truyện Bùi Giáng; Bùi Giáng, nguồn xuân, viết về tập thơ đầu tay của Bùi Giáng (được tái bản tại Hà Nội), bài Trường phái Bùi Giáng của nhà thơ Thu Bồn và bài Bùi Giáng trong cõi người ta của nhà thơ ý Nhi, viết ngay sau ngày mất của Bùi Giáng, thuyết phục tôi hơn cả. Chỉ duy nhất có một bài nói khác, chính là bài của nhà văn Nguyễn Quang Lập. Tôi xin phép ông trích lại nguyên văn. Theo Nguyễn Quang Lập: “Kỳ lạ, gặp ai, hễ nhắc đến Bùi Giáng là khen nức nở, tuyệt không thấy một người nào chê, còn mình thì thực sự không thấy hay, ngoại trừ mấy câu, như ông vẫn nói là theo điệu du côn, đại loại Sài Gòn, Chợ Lớn rong chơi / Đi lên đi xuống đã đời du côn thì hay. Nhưng bảo là sâu sắc thì mình chịu. Thơ đó mấy ông nhà thơ dân gian Bắc Kỳ, xứ Nghệ siêu hơn nhiều. Mình cứ nghi nghi hay người ta đua nhau sùng bái thơ văn ông theo kiểu hoàng đế cởi truồng, hi hi, nhưng không dám nói” (sách đã dẫn, trang 251).
“Hoàng đế cởi truồng” là trong truyện Bộ quần áo mới của Hoàng đế của nhà văn Đan Mạch nổi tiếng, Hans Christian Andersen.

Ve tho Bui Giang

Bùi Giáng là một nhà thơ rất được chú ý, với nhiều cách hiểu khác nhau. Theo tôi, ngôn ngữ thơ Bùi Giáng rất phong phú, sinh động, tự nhiên, nhưng không được đẹp như nhiều người nói. Ngôn ngữ đẹp bao giờ cũng mang đến cho người đọc sự cảm thụ về thẩm mỹ. Tôi hoàn toàn không thấy điều đó, khi đọc những câu sau:
Nếu ngày mai tôi chết đi
mà cô không thể giỏ cho một
                                       giọt nước mắt
Thì cô có thể giỏ cho một giọt nước tiểu
                                              cũng được
                                   (Nhớ giỏ trên mồ)
ở dưới suối vàng, tôi sẽ ngậm cười
                                              đón nhận
(Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây)
Cô ở đây là nữ nghệ sĩ Kim Cương, người mà ông yêu một cách si mê và sùng kính. Đoạn thơ trên dẫn theo nhà văn Nguyễn Quang Lập trong bài Nhớ Bùi Giáng, in trong tập sách 576 trang, Bùi Giáng trong cõi người ta, Nhà xuất bản Lao động, 2008, trang 252, do Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây sưu tầm biên soạn, nhân 10 năm Bùi Giáng (1926 - 1998) qua đời.
Ai cũng biết câu dưới cùng của đoạn trên là nguyên văn một câu thơ của Nguyễn Du.
Những bài thơ như thế chỉ làm tôi thấy… mất vệ sinh và nhà thơ đã tự hạ mình thấp đến mức thảm hại như vậy thì làm sao để người đọc kính trọng được.
Hầu hết các câu thơ lục bát, được coi là sáng tạo huy hoàng nhất của Bùi Giáng, như nhiều người đề cao, theo tôi, đều có cái phong vị của các câu thơ Nôm trong các truyện thơ Nôm khuyết danh thế kỷ XIX, nhưng câu thơ của Bùi Giáng có cá tính, có thần thái hơn. Thơ ông, đọc ít bài thì thấy có nét riêng, lý thú, nhưng đọc một mạch hàng trăm bài trong một hai tháng liền, như tôi đã đọc gần đây, thì lại thấy có đến hàng trăm câu cũ kỹ, mòn sáo, đều đều, dài dòng, lai nhai, tạp nham, trùng lặp.
Ông đưa nguyên văn hoặc hầu như nguyên văn phải đến dăm bảy chục câu thơ Kiều vào thơ ông, theo nhiều kiểu cách khác nhau:
Mặc người
mưa Sở mây Tần
Riêng mình gìn giữ
Một lần đầu tiên
Hoặc:
Rừng phong thu đã nhuộm màu
Quan san ngần ấy tư trào ngần kia
Tôi thống kê được đến hơn 200 câu mà tôi cho là ông viết vội vàng, viết lấy được, vô cùng nhiều những câu trùng vần, không vần hoặc nhịu vần... Chưa kể câu non, ý lép, na ná như nhau. Hoàn toàn không có “ý tại ngôn ngoại”. Sau này mới biết là ông viết tại chỗ liền một mạch có khi “hàng trăm bài”, rồi “nhà in cứ thế sắp chữ” luôn, không sửa chữa (sách đã dẫn).
Uống xong ly rượu cùng nhau
Hẹn rằng mai sẽ quên nhau muôn đời là trùng vần, dù ý tưởng trong câu thì rất đáng chú ý. Và không vần, đặc điểm này thường gặp trong thơ lục bát của ông:
Tuy nhiên anh suốt suối vàng
Vẫn mong em còn suốt cõi trần vui chơi Thậm chí có đoạn chỉ có 4 câu:
Trinh nữ em có mặc áo quần
Mà không ắt hẳn là quần thật xinh
Nếu như em chẳng mặc quần
Thì ông trời ắt càng mừng rỡ hơn mà câu 1 và 2 trùng vần; câu 2, 3 và 4 không vần. Trong ba câu mà có đến ba chữ quần. Viết như thế phải nói là lười biếng và cẩu thả. Đó là những điểm kỵ của thơ lục bát mà một cây bút phong trào, nghiệp dư, cũng phải tránh. Vậy mà vẫn có nhà phê bình khen là hay là đẹp, là “sáng tạo thiên tài” thì tôi chịu không hiểu nổi. Đọc đến đây, có thể có bạn sẽ cự lại: Thôi Hiệu đời Đường trong ba câu cũng ba lần viết Hoàng Hạc đó sao:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản…
(Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa…)  
                                     (Tản Đà dịch)
Khác nhau là Thôi Hiệu có dụng công nghệ thuật để câu thơ thành kiệt tác mà Bùi Giáng thì không.
Hoặc nhịu vần:
Viết thơ lạc dấu sai dòng
Viết trong tức tưởi sợ đồng lúa mong
Tất nhiên ở đây, mới chỉ bàn riêng về vần trong thơ lục bát Bùi Giáng, vốn là yếu tố nghệ thuật rất quan trọng trong thơ lục bát Việt Nam nói chung.
Đoạn thơ sau đây cũng không hay như có nhà phê bình đã tán tụng. Tôi dẫn ra để thấy điều tôi thích thú ở thơ ông là ông xưng “Trẫm”. Ông là nhà thơ duy nhất ở Việt Nam xưng “Trẫm”:
Hỡi cô bán phở dịu dàng
Đừng nên nói bậy hai nàng buồn ta
Trẫm từ lịch kiếp phôi pha
Tái sinh bất chợt mà ra phụ lòng
trong khi các vua Trần, vua Lê làm thơ, chỉ xưng “ta”. Ví như thơ của vua Trần Thánh Tông: “Hữu nhân vấn ngã hà tiêu tức?” (Có người hỏi ta sinh diệt thế nào?); thơ của vua Lê Thánh Tông: “Dư xuất lục quân, duyệt binh vu Bạch Đằng giang thượng…” (Ta xuất sáu quân, duyệt võ trên sông Bạch Đằng…).
Tôi cũng rất thú cái chất vui mà Bùi Giáng gọi là “cà chớn”, “vui thôi mà”.
Hai câu thơ thực khó quên:
Sáng nay bao tử mơ mòng
Cà phê bên nọ, cháo lòng bên kia…
Có nhà phê bình gọi đó là “cái vui vĩ đại” thì không biết có đúng hay không?
Và càng nghĩ càng thương ông trong bộ dạng: “Ông lang thang đây đó, ngủ ở bất cứ đâu, dưới trời sao, dưới một gầm cầu, hay dưới một mái hiên. Có những lúc lại thấy ông đeo một xâu chuỗi toàn giày dép và áo quần phụ nữ quanh cổ” (sách đã dẫn, trang 358). Có nhà phê bình cho rằng “cách sống đó là lý tưởng”, và chỉ “mong mình được sống như vậy”, thì không biết nói thế có thật lòng với ông hay không?
Riêng câu này thì tôi thấy hay:
Dạ thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương…
Tự nhiên và sang trọng. Tưởng rất dễ làm nhưng không phải Bùi Giáng, tôi e là khó có ai làm được. “Núi Ngự sông Hương” thì đã có sẵn trong ca dao rồi. Phong vị của câu thơ có lẽ là ở hai chữ Dạ thưa rất Huế chăng? Bởi chỉ bóc hai chữ ấy ra, câu thơ khác hẳn, mất hết thần thái và trở nên thông thường. Tôi nghĩ, đây có lẽ là hai câu thơ hay nhất trong bài thơ chỉ có hai câu Dạ thưa xứ Huế bây giờ của Bùi Giáng và cũng là hai câu thơ có thể xếp vào hàng những câu thơ lục bát Việt Nam đẹp nhất viết về đất nước.
Tập sách Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam, một công trình biên khảo dầy dặn, tâm huyết, khá thấu đáo và rất công phu của nhà thơ - soạn giả Nguyễn Vũ Tiềm, trong đó 10 nhà thơ được chọn nhiều nhất, có số lượng từ 29 đến 53 câu, như một tờ báo đã thống kê. Vậy mà trong công trình biên khảo rất công phu ấy, nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm chỉ chọn của Bùi Giáng 9 câu, theo tôi cũng không hay, nhưng hai câu hay này, không hiểu sao, nhà thơ lại để sót. Tôi chợt nhớ đến Nguyễn Bính, khi Nguyễn Bính viết (chép theo trí nhớ):
Làng tôi có gió bốn mùa
Có trăng giữa tháng, có chùa
                                      quanh năm...
Vì cách lập tứ hai ông giống nhau, nhưng thích thì tôi thích câu thơ Bùi Giáng hơn, vì nó có giọng điệu, có sắc thái hơn. Nghe âm hưởng cũng sang hơn. Những câu thơ như thế của Bùi Giáng rất hiếm.
Có câu tôi nhớ vì thấy nó là lạ chứ chưa hẳn đã hay:
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
Ông là một trong những đại diện xứng đáng nhất của thơ miền Nam trước đây. Viết về thơ miền Nam nói riêng, thơ Việt Nam nói chung, giai đoạn 1962  - 1985 mà không nhắc đến ông cũng là một thiếu sót. Nhưng ca ngợi ông theo kiểu nói lấy được, cũng là điều không nên, và tôi e rằng điều đó có cái gì như là ở ngoài văn học, ở ngoài cả chính thơ của Bùi Giáng?


Trần Nhuận Minh