Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Bóng giai nhân và Nguyễn Bính của Mộng Tuyết

Trịnh Kim Thuấn
Thứ ba ngày 3 tháng 12 năm 2013 9:09 PM

“Mùa nầy, trời miền Nam , mưa đang rơi nặng hạt.
                                        Cố nhân còn đâu ? "

Tôi nhắc lại câu cuối cùng của bài “Để nhớ Nguyễn Bính” hồi mấy năm trên. (bài Để nhớ Nguyễn Bính những ngày ghé bến Hà Tiên, báo VĂN số 60 ngày 15-6-1966)

Một nhà nho miền Bắc nhận xét thời tiết miền Nam qua hai câu :

                                          Tứ thời giai thị hạ.
                                          Nhứt vũ tiện thành thu.
Cái mưa đầu mùa phương Nam là thế đó :

                                           Bốn mùa nóng bức trời đang hạ.
                                           Một trận mưa rào chợt thấy thu.

Hôm nay trời đang nóng nung người của thịnh hạ, đột nhiên vào thu sau một cây mưa chiều mát rượi, rửa sạch bụi hè cho cây, cho lá.

Một chút thu man mát, man mát vừa đủ để gây nhớ cho lòng người.

Lòng tôi lúc nào cũng mang nặng một nỗi sầu nhớ miên man vô tận, nhưng mà bây giờ hãy gác lại nó đi. “Vết thương còn chảy máu phải băng bó nó lại, đừng kích thích nó, khi nào nó lành miệng rồi, chạm vào nó mới thấy một cái thú chua chát. Nó không còn nhức nhối làm cho ta thét lên, nhưng còn đủ đau để làm cho ta rên rỉ …” (Thư gởi người đàn bà không quen biết, Nguyễn Hiến Lê dịch Andre Maurois 1971).

Tôi vâng theo lời khuyên đó mà liều lĩnh chấp nhận lời yêu cầu của ông thư ký tòa soạn Văn, một lời yêu cầu mà tôi chẳng dám nhận trước đây. (Tòa soạn VĂN xin được công nhiên ngỏ lời cảm tạ bà Mộng Tuyết về bài viết nầy và về nhiều tài liệu mà bà đã có lòng cho mượn).

Lại nhớ Nguyễn Bính, những kỹ niệm vụn vặt có đủ để cho tôi ghi lại nữa không ? Còn về khía cạnh thi sĩ của Nguyễn Bính thì đã bao nhiêu nhận xét rồi và tôi cũng từng nghĩ về một khía cạch nào đó của nhà thơ nầy rồi !

BÓNG GIAI NHÂN VÀ NGUYỄN BÍNH :

Tôi bắt chợt cái tiểu nhan bài nầy của nhà văn lão thành Vũ Bằng, vì nhờ nó mà tôi mới nhớ đến vở kịch thơ “Bóng Giai nhân” và vài ý mơ hồ nho nhỏ.

Trong đám tài liệu cũ đã bị mất mát gần hết, còn sót lại một mớ bút tích của các nhà văn bạn bè xưa. Trong đó có hai bản : cả hai đều in trên giấy Dó đẹp, có những lông tơ óng mỡ như nhung trên màu vàng cổ điển của nước Việt Nam vương giả.

Một là tài liệu của Tự Lực Văn Đoàn trong đó có đủ chữ ký của toàn nhóm.

Một là cánh thiếp mời của Ban kịch Hà Nội in chữ đen trên nền lầu Khuê các màu đỏ :

                                                Ban Kịch Hà-nội
                                                    (trình diễn)

                                                Thế Chiến Quốc
                                                Bóng Giai nhân

Tại Nhà Hát Tây Hà-nội tối 10 octobre 1942
                                            Để giúp quỷ Đông Dương Học Xá.

                                                Chỗ ngồi danh dự  H
                                                Giá đặc biệt  25  đồng

Nét đặc biệt của cánh thiếp gấp đôi nầy là mở ra 2 trang trong bày ra một bức vẽ đan thanh thủy mặc :

Một bóng giai nhân áo xanh hoa lý phất phới cầm chiếc quạt e lệ đứng với một nét lục liễu rủ bóng bên nhịp cầu son cùng với một vừng cỏ biếc, do nét họa của họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung. Toàn thể bức tranh đẹp và trang nhã lạ lùng .

Một cái vé xem kịch mà được sửa sang công phu do một họa sĩ thời danh, cách đây 30 năm đã 25 $ thì phải biết buổi diễn kịch đó có tính cách trang trọng đến ngần nào.

Ngày Nhất Linh đến chơi Đại Ẩn Am gặp lại tài liệu trên anh đã bồi hồi cảm động, như gặp lại toàn thể anh em trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, lúc đó kẻ còn người mất, kẻ bên kia, người bên nầy.

Thì Nguyễn Bính, ngày ở gác Nam Phong trên bến Hồ Đông gặp lại tấm thiếp Bóng Giai Nhân, chàng thi sĩ tha hương lúc đó cũng ngạc nhiên thích thú. Nguyễn Bính điều tra mãi xem ai đã gởi cho tôi.

Bính gặp lại vỡ kịch và tấm thiếp ngoài sự ngạc nhiên, còn làm cho Bính nhớ lại ngày vàng son cũ, Bính cao hứng đẽo gỗ làm gươm để độc diễn lại vỡ kịch cho chúng tôi xem. Khi đóng vai người tráng sĩ cầm gươm báu, bức một sợi tóc thổi ngang lưỡi gươm để thử sức ngót của thanh gươm đã đúc bằng thép tốt mà vì muốn cho được thiêng, người thợ rèn đã phải dùng máu của đứa con độc nhất của mình để luyện nên chất thép lạnh ngời đó.

Bính múa gươm và say sưa ngâm cao, trút cả nỗi hận đời vào câu : Bao giờ họ Đỗ nên xa mã …

Kể ra thì Bính cũng khéo tay lắm. Bính đã đẽo thanh gươm gỗ, cũng như Bính đã cưa đoạn tre già, rồi dùng dây đồng  buộc làm chân  chế tạo thành một cái điếu để hút thuốc lào . Vì ở Hà Tiên không tìm đâu ra được điếu , cho nên Bính phải tự tìm cách chế tạo lấy, Bính khoe mãi về hai công trình đó, vì hình như Bính rất ít làm việc thủ công .

Suốt đời Bính, người nghệ sĩ lang thang cũng như trong vở kịch, người tráng sĩ họ Đỗ cầm thanh gươm mới ra lò với lời căn dặn phải giết ngay người nào mà tráng sĩ gặp được trước tiên trên đường “hành hiệp”.

Nhưng mà éo le thay, gặp trước tiên lại là một hình bóng giai nhân uyển chuyển, thướt tha đáng để cho người ta chiêm ngưỡng, chứ không phải là một nét hiên ngang của người dũng mãnh để cho tráng sĩ khỏi phải ngần ngại sử dụng lưỡi gươm báu mới rèn xong .

Ngoài đời Nguyễn Bính đã gặp biết bao nhiêu là “bóng giai nhân” như trong kịch. Vâng ! chỉ toàn là những bóng giai nhân lảng vảng chập chờn. Éo le và chỉ để cho Bính yêu đơn phương da diết.

Từ Oanh, người con gái lầu hoa đến người bến Tầm Dương Dung bé bỏng đều đã cho thi sĩ lấy đau thương thất vọng làm đề tài. Đã có bao nhiêu tâm tư đổ chan hòa trên trang thơ chua xót than van, oán hận do những bóng giai nhân đó dệt nên.

Bao nhiêu bóng giai nhân đã đi qua trong đời thi sĩ, có lẽ chỉ có người “cố nhân” mà Bính gọi là “Hương” đã để lại vết hằn sâu đậm nhất trong đời tình cảm của Nguyễn Bính .

Cho nên chàng phải mượn hình dung người tráng sĩ lỡ thời mang “giày cỏ”, vác “gươm cùn” lưu lạc vào phương Nam này.

Thuở đó, đã có một nhà văn nổi tiếng giang hồ mơ ước :

“Chị Hoài không phải là chị ruột tôi. Đấy chỉ là một người chị tôi mượn của cuộc đời bừa bộn những oan trái. Tôi đi xin được người chị hiền ấy ở đâu và tự thuở nào, thực cũng khó mà chỉ cho rõ được. Tôi chỉ biết rằng từ ngày bắt gặp được chị ấy giữa một cái ngã tư lộng gió của cuộc đời sống bạo ngược nầy, lòng tôi có thấy ấm và đỡ vắng hơn trước nhiều. Và ngẫm đến những thôi đường lăng nhăng dở dang một cách rất đẹp đẽ từ trước đến giờ, tôi phải một lời ước : “ Giá mà ta có một người chị ruột như vậy ? “ Giá mà thế thì sao ? Thì cuộc đời hiện tại của tôi đã chẳng là cuộc đời tôi bây giờ nữa …”  ( Nguyễn Tuân : Tóc Chị Hoài, xuất bản Lượm Lúa Vàng, Hà nội 1943 ).

Đã có biết bao nhiêu danh nhân thế giới nhờ tay bóng quần thoa tán trợ mà nên sự nghiệp, đã khiến cho Nguyễn Tuân ao ước có một tâm hồn phụ nữ hiểu mình. Nhà văn nầy đã gặp chị Hoài trong một thời gian nào đó. Rồi chị Hoài biến đi mất, cho nên nhà văn cứ phải ước mơ có được một người chị, một tâm hồn phụ nữ biết săn sóc, biết an ủi, biết thưởng thức tài tình của mình. Còn Nguyễn Bính đã có được một chị Trúc, một người chị tinh thần mà Nguyễn Bính đã mượn làm đối tượng để gởi gấm tâm sự mỗi khi mệt mỏi. Tưởng rằng người chị đó cũng là một thực chất mà nhận tâm sự của đứa em giang hồ bất đắc chí, Nguyễn Bính đã được chút an ủi đó rồi !

Trãi bao phen cay đắng lận đận vì yêu, gởi gấm tâm tình không đúng chỗ. Dù sao Nguyễn Bính cũng đã dừng chân dưới một mái nhà tranh với một người giai nhân bằng xương, bằng thịt. Người con gái tròn tròn, thấp thấp của Đồng Tháp miền Nam, đã được Bính thương nhớ vời vợi trong “Đêm sao sáng “ :

                                          Trông vời viễn núi xa xanh.
                                      Tưởng trông rõ mái nhà mình phương Nam.
                                           Tưởng chừng người vợ tào khang.
                                      Đương nhìn lên thấy sao nàng nhớ anh.

Người vợ tào khang mà Nguyễn Bính đáng lẽ phải mang về Bắc để làm quà cho chị Trúc : một người em dâu, thì buồn thay Bính phải dời miền Nam này với lời  ước hẹn :

                                        Yêu nhau xin nhớ lấy nhau.
                                        Lấy câu xum họp, làm câu hẹn hò ….

Nhưng mà cái hẹn đã không bao giờ thành, khói lửa đã cách ngăn đôi bờ yêu đương vô thời hạn, Nguyễn Bính đã mang mối hận chung, với nỗi nhớ thương dằng dặt :

                                           Trời còn có bữa sao quên mọc.
                                           Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em.

Một người vợ tào khang “ ở lại “ đã được thi sĩ tha thiết nhớ bằng những lời lẽ chân thành như vậy, tưởng cũng an ủi được phần nào nỗi xa vắng nhau rồi

Vậy bây giờ vợ Bính ra sao ? Và đứa con mà Bính để lại là trai hay gái ? Năm nay cũng ở  tuổi quân dịch, nếu là trai, mà ngày ra đi người cha còn mang hình bóng trẻ thơ măng sữa :

                                            Trong mơ con bú chưa rồi.
                                            Lưỡi con đưa đẩy, đôi môi còn thèm .

Gần đây, bây giờ, người ta nhớ Nguyễn Bính, người ta tưởng niệm nhà thơ thất tình, thất chí của những vần thơ tài hoa mộc mạc đáng yêu . Bạn bè có sống chung với Bính ít nhiều đều nhớ thương Bính.

Vậy một “Bóng giai nhân” đã ngưng đọng thực thụ trong đời Bính, người vợ tào khang, nghe nói cũng từng viết văn ( theo Kiên Giang- Hà Huy Hà ), thì cô gái viết văn, người bạn đã chia xẻ một quãng đời với Bính, sao lại chẳng có ít nhiều góp vào trang tưởng niệm cho được hoàn toàn đầy đủ hơn.

Và bây giờ … Vợ Bính, con Bính ở đâu, có đọc thấy những dòng thăm hỏi này không nhỉ ?

                                       MỘNG  TUYẾT    thất tiểu muội
                                         Tiết Đoan Ngọ - Tân Hợi  1971.
____________________________________________________________________

Nhà văn, nhà thơ Mộng Tuyết (1914 – 2007) bút hiệu là Hà Tiên cô, Bạch Thảo Sương, Thất Tiểu Muội … là thành viên của nhóm “Hà Tiên tứ tuyệt” gồm : Đông Hồ, Mộng Tuyết, Lư Khê, Trúc Hà.

Hoài Thanh – Hoài Chân từng nhận xét : “ Còn thơ : hoặc nhẹ nhàng nhưng dí dỏm hoặc hàm xúc lâm ly, hoặc nhớ nhung bát ngát, hoặc xôn xao rạo rực, tổng chi là một thiếu nữ, khi tình tự, khi đùa giỡn, khi tạ lòng người yêu. Người xem thơ bỗng thấy lòng run run như khi được đọc thơ tình gửi cho một người bạn : người thấy mình đã phạm vào chỗ riêng tây của một tâm hồn, trong tay như đứng nắm cả một niềm ân ái ….
                                                                                         (theo WIKIPEDIA