Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

KHÁT VỌNG VỀ MỘT THẾ GIỚI ĐA NGUYÊN LUẬN

Nguyễn Huy Canh
Thứ hai ngày 7 tháng 6 năm 2010 6:19 AM
TNc: Tôi nhận được bài khảo luận và lá thư của cử nhân triết học Nguyễn Huy Canh. Đây là đóng góp với ĐH Đảng sắp tới nên tôi cho lên trang nhà như một ý kiến, suy nghĩ riêng của anh Nguyễn Huy Canh. Trong xã hội dân sự thì những ý kiến của một người cũng đều được thông tin và xem xét.

Kính gửi nhà văn Trần Nhương
I. Khảo luận của tôi đã gửi cho Viện Triết hai năm nay. Nhưng họ không đăng tải, vì theo họ, những bận tâm có tính chất “Hình Nhi Thượng” là đề tài ít được mọi người chú ý, thêm nữa có những nội dung ngoài luồng. Tôi nhờ qua anh công bố cũng mong nhận được sự quan tâm, thảo luận của nhiều người về một vấn đề đang có sức chi phối mạnh mẽ thực tiễn xã hội chúng ta.
Như chúng ta đã biết triết học truyền thống phương tây đã bị những trào lưu triết học hiện đại và hậu hiện đại phê phán mạnh mẽ.
Sự phê phán này có thể tính từ Husserl, tuy nhiên, có thể nói ông chỉ là bản sao của Kant đã sửa đổi. Ở Kant, hiện tượng được nhận thức bởi ý thức tiên nghiệm có giá trị với mọi chủ thể quan sát, còn Husserl đưa thế giới đối tượng vào tính chủ quan thuần tuý sau khi đã bỏ nội dung sự vật bên ngoài vào trong dấu ngoặc theo phép qui giản.
Tư tưởng này của ông đã bị Sarte phê phán gay gắt. Theo Sarte, các vật được nhận thức tồn tại bên ngoài ý thức, rằng nó có tính không qui được về ý thức.
Tuy vậy, ông cũng không đem lại một giải phápmới ngoài chủ nghĩa duy tâm chủ quan có phần thần bí.
Sự phê phán ở Heidegger cũng không tiến triển đáng kể. Thế giới của ông, rút lại cũng chỉ là thế giới được nhân cách hoá. Với ông không có thế giới như một tồn tại có trước con người: không có vật tự nhiên thuần tuý.
Tiếp theo chủ nghĩa hậu hiện đại cũng rơi vào bế tắc. Nhiều triết gia có tên tuổi đã phê phán nó.
Tuy nhiên cũng phải ghi nhận những kết quả mà các trào lưu triết học ấy đã đạt được, trong đó phải kể đến sự chiến thắng của nó với tư duy truyền thống.
Triết học Marx – Lenin là sự kế thừa có phê phán triết học cổ điển Đức (đặc biệt là triết học Hegel). Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một phát kiến vĩ đại của các ông.
Nhưng mọi học thuyết dù có khổng lồ, vĩ đại tới đâu cũng chứa đựng những hạn chế lịch sử đã sinh ra nó.
Triết học Marx – Lenin cũng không nằm ngoài phạm trù triết học truyền thống. Nó đã tỏ ra không còn phù hợp, không còn có khả năng lý giải tồn tại tổng quát, cũng như trả lời cho những vấn đề mà thời đại đang đặt ra.
Xã hội chúng ta đang biến đổi, phát triển và “tìm về” một cách chủ động có chọn lọc, sáng tạo những giá trị của chủ nghĩa tư bản.
Trong bối cảnh đó, việc phê phán (có tính chất xây dựng) học thuyết và nói riêng triết học ấy, theo tôi phải là một nhu cầu, một khát vọng chính đáng của sự phát triển lịch sử.
Ông Xuân Nguyễn trong khi phê phán Đỗ Xuân Thọ đã đưa ra lời kêu gọi bảo vệ học thuyết Marx – Lenin bằng việc bổ sung, thêm thắt những tri thức mới làm cho nó ngày một hoàn chỉnh hơn (theo ông dù có phải bỏ đi một số nguyên lý cơ bản không còn phù hợp với thực tại) trong nhiều lý do bảo vệ được ông đưa ra là sự đổ vỡ, sự thất bại của mô hình XHCN trước kia là do dân tộc ta giáo điều, Đảng ta giáo điều còn học thuyết ấy vẫn là học thuyết mở, là chân lý khả kính.
Những điều trình bày ở trên, có thể nói ông đã quay lưng lại với quan điểm tri thức luận tiến hoá đã được thực tiễn khoa học tự nhiên và triết học trong suốt thế kỷ XX xác nhận.
Việc phê phán triết học Marx – Lenin không thể dựa trên những bức xúc nhất thời, cũng như một thái độ hằn học thiếu thiện chí. Kết quả của công việc phê phán cần đưa ra được một cái nhìn mới, một thế giới quan mới về Tồn Tại.
Khảo luận này của tôi là một cố gắng mong đóng góp phần nhỏ vào cái nhìn mới đó, mong có sự tham gia tạo lập một nền tảng lý luận mới ở cấp độ học thuật cho Đảng ta.
II. Đôi nét về tiểu sử:
Nguyễn Huy Canh – sinh 10/1954. Quê Thuỷ Nguyên, Hải Phòng.
- Năm 1973 nhập ngũ và tham gia chiến trường B. Ngày giải phóng có mặt tại Đà Nẵng 29/3/1975.
- Năm 1977 phục viên. 1978 vào học tại khoa Triết – Đại học Tổng hợp Hà Nội. 1983 nhận bằng cử nhân triết học. Đã công tác tại Trường Đảng Quảng Ninh và Trường Đảng Tô Hiệu – Hải Phòng.
- Vào ĐCS năm 1989. 1994 do vấn đề cuộc sống xin về quê và tiếp tục dạy học tại THCS cho đến nay.
- Đã có một bài viết “Bàn về phạm trù vật chất của Lenin” đăng trên tạp chí triết học số 22 - tháng 3/2008 và bài “Đảng với học thuyết Marx – Lenin” đăng trên Quốc nội số 88
.

Đóng góp với ĐH Đảng lần thứ XI

 Chúng ta đã biết, cuộc Cải cách ruộng đất(1956), tổ chức Hợp tác xã toàn xã (1976 – 1977), và công cuộc cải cách Công thương nghiệp ở miền Nam sau 1975 là một sai lầm lớn.
 Sự đổ vỡ của hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu cũng là kết quả của một loạt những sai lầm lớn.
 Người ta đã cho những sai lầm đó thuộc về Đảng ta, thuộc về Đảng Cộng sản, và nói rộng hơn thuộc về chúng ta đã không  hiểu đúng triết học Marx – Lênin.
 Nhưng tôi có thể khẳng định rõ ràng rằng những sai lầm đó có gốc rễ từ trong những quy luật, những nguyên lý cơ bản của triết học Mác xít – nó không thuộc về chúng ta.
 Nếu chúng ta có sai lầm chỉ là ở chỗ không dám nhìn ra những hạn chế và lỗi thời của triết học ấy.
 Dĩ nhiên chúng ta cũng thấy rằng những tư tưởng triết học của các ông đã đáp ứng được những đòi hỏi mà thời đại các ông đặt ra, các ông đã có những cống hiến to lớn cho nền triết học thế giới và đặc biệt cho giai cấp những người lao động nghèo khổ.
 Thế giới ngày nay đã có quá nhiều biến đổi về công nghệ và quan hệ chính trị.
 Và đặc biệt chúng ta, từ một đất nước bị nô dịch đã trở thành có chủ quyền, tự do và độc lập. Và mỗi chúng ta từ thân phận thần dân và nô lệ đã trở thành dân của một nước độc lập và cao hơn còn là dân trong một thế giới có hiến pháp.
 ở mức độ triết học, tôi gọi mỗi chúng ta sinh ra ở “điểm” phân đôi của thế giới hiện thực. Chúng ta là một hữu thể.
 Thời đại chúng ta đang sống cần phải có một trào lưu triết học riêng, một tư tưởng triết học riêng để đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống.
 Chủ nghĩa duy vật hiện đại là một sự lầm lạc. Gần 50 năm đã qua chúng ta đã đi trên con đường đó, trên lối  đi cụt và tối tăm đó.
 Không thay đổi để có một cách nhìn mới, không giã từ nền triết học đó chúng ta không thể tiến lên nổi một bước nào về phía trước.
 Tôi ý thức sâu sắc rằng thay đổi một quan niệm, lối suy nghĩ đã thành thói quen của một thế hệ nhiều người là một điều rất khó khăn. Do vậy công việc này đòi hỏi phải có sự đóng góp của rất nhiều người.
I.
Tồn tại và hiện thực
 Sự suy nghĩ triết học về thế giới, tức là về các sự vật và  hiện tượng xung
quanh cho đến con người và lịch sử là nội dung trả lời cho câu hỏi nó được sinh ra như thế nào ? Bản chất của nó là gì?
 Câu hỏi về bản chất của vạn vật, bản chất của thế giới đã được triết học đặt ra và giải quyết từ lâu với những nội dung khác nhau.
 Với triết học Mác – xít, bản chất của thế giới được hiểu là vật chất. Rằng vạn vật trong thế giới từ cái cây, hòn đá, cái xanh, cái vàng là những dạng tồn tại cụ thể của nó, là vật chất được biểu hiện ra ở một hình thái xác định.
 Vậy vật chất là gì? Ăng ghen có giải thích rằng sau vô hạn phép loại trừ những phẩm chất, tính chất riêng biệt, đặc thù ở các sự vật, cái chung nhất còn lại trong chúng là vật chất.
 Sự loại trừ ấy là vô hạn, nên vật chất với tính cách là vật chất là một khái niệm không định nghĩa được.
 Lênin sau này cũng có nói rằng khi ta định nghĩa chẳng hạn “Con lừa là một động vật” ta đã đặt chủ từ con lừa vào vị từ động vật có ngoại diên rộng hơn. Vật chất là vô hạn, vô tận nên người ta không thể đưa ra định nghĩa theo cách đó được
 Điều đó có nghĩa là theo quan điểm Bản thể học, chúng ta không xác định được vật chất là gì.
 Vậy đâu là cơ sở để chúng ta khẳng định vật chất là một bản chất chung nhất có trong vạn vật: rằng cái bàn, hòn đá, cái xanh, cái đỏ là hình thái tồn tại cụ thể; là biểu hiện cụ thể của vật chất?.
 Chúng ta phải có một sự thừa nhận Tồn Tại đã phát triển từ vô cơ đến giới hữu cơ, từ không có sự sống đến sự xuất hiện của các sinh vật.
 Tồn tại tự quy đinh cho bản thân nó, trong giai đoạn đầu là Đồng nhất với chính nó. Một sự đồng nhất trừu tượng. Tôi gọi là Tồn – Tại – Thuần – Tuý.
 Tồn tại thuần tuý không phải là tồn tại trống rỗng, không chứa một tính quy định nào. Nó là giai đoạn đầu của Thế giới hiện thực. Nó chưa biểu lộ mình, chuyển mình ra ở Tồn – Tại – Khác.
 Nước là một hợp chất của 2 nguyên tố H2 và O trong tồn tại ngày nay, hàng triệu năm về trước nó cũng là như thế.
 Trái đất hôm nay đã có nhiều biến đổi, nhưng khoa học địa lý vẫn cho chúng ta biết được nó đã từng tồn tại hàng tỷ năm về trước.
 Rất nhiều các sự vật như thế: Mặt trời, mặt trăng, ánh sáng, bụi khí…. đã có lịch sử tồn tại lâu dài. Chúng ta gọi nó là những bộ phận của Tồn tại thuần tuý.
 Sự tồn tại của Tồn tại thuần tuý là có thực. Nó được suy ra từ kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm của khoa học tự nhiên, rằng nó không phải là một tiền đề giả định của triết học.
 Một quá trình phát triển về sau đã làm xuất hiện cảm giác ở con người. Cảm giác là hình ảnh đầu tiên của Tồn tại về chính mình.
 Trong trạng thái Đồng nhất trừu tượng Tồn tại chưa như  là cái gì. Sự xuất hiện của cảm giác nói lên một điều: Tồn tại thuần tuý đã phát triển đến trình độ Bản chất, tức là đến cái trình độ có khả năng biểu hiện mình qua cái khác, Tồn – Tại – Khác.
 Tồn tại xuất hiện mình ra như là... là Tồn tại trong tính quy định bản chất, còn cảm giác chỉ là biểu hiện bên ngoài của thế giới trong tính cụ thể – Nó là hiện tượng thế giới.
 Tồn tại biểu hiện mình ra như là cái cây, hòn đá ấy trong lĩnh vực của Tồn tại là những mặt, những bộ phận, khía cạnh, tính chất hợp thành của vật chất. Nó là thực – tồn của Bản chất.
 Sự thống nhất, đồng nhất giữa Bản chất và Hiện tượng giữa vật chất và  cảm giác là ở trong tính thực tồn của Bản chất, còn sự khác biệt là ở trong tính hình ảnh của cảm giác, tính bị quy định. Theo nhận thức luận, sự thống nhất và khác nhau giữa chúng là ở trong tính khách quan do Tồn tại quy định và trong tính chủ quan của cảm giác.
 Nhờ tính khác biệt này giữa tư duy và Tồn tại, giữa bản chất và hiện tượng thế giới mà trong sự phát triển về sau khi đã có một sự tồn tại độc lập của Hiện tượng, của bề ngoài, cũng tức là năng lực tư duy trừu tượng, tư duy đã phân chia, chia cắt Tồn tại ra thành những bộ phận, những mảnh vụn để nghiên cứu xem xét. Tính ưu việt này của tư duy cũng là hạn chế của nó. Chính từ đây đã làm nảy sinh ra biết bao sai lầm và rắc rối của tư duy triết học.
 Ta xét một ví dụ: Các nhà triết học vẫn xem ngôi nhà có một bản chất, đó là nơi mà người ta dùng để ở. Tất cả các ngôi nhà khác (họ gọi là các hiện tượng) đều giống nhau ở bản chất ấy. Các triết gia duy tâm trước đây cũng như các nhà duy vật đều nói như vậy. Khái quát nên, vạn vật tuy khác nhau nhưng đều chứa một Bản chất ấy. Sự khác nhau chỉ ở trong cách giải thích của họ.
 Nhưng thực ra cái bàn, hòn đá vỡ, lá cây run rẩy, mưa rơi không phải là những hiện tượng của một bản chất nào đó. Nơi người ta dùng để ở không phải là bản chất của nhà, mà cái nhà chỉ là một phận hợp thành của Bản chất thôi, rằng nơi người ta dùng để ở chỉ là đặc tính chung của các ngôi nhà đó.
 Hiện tượng chỉ là cảm giác, là ý thức và ngược lại, hòn đá, cái cây, màu xanh trong cảm giác mới là hiện tượng (thế giới).
 Trong lĩnh vực thực – tồn, cái cây, hòn đá, màu xanh không có một sự tồn tại riêng, độc lập với những bộ phận khác, cái khác. Nó chỉ là những bộ phận, những  mặt hợp thành không tách rời của Tồn tại.
 Khi khoa học đặt ra câu hỏi cái nhà này có bản chất gì? Hạt mưa rơi có bản chất gì?  tức là họ đã đi tìm đặc tính chung của các vật đó, hoặc là tìm hiểu về cấu tạo, về cơ chế hoạt động của chúng, hoặc là những nguyên nhân đã tạo ra chúng… điều đó là đúng. Nhưng với triết học, câu hỏi đó đáng ra phải được đặt ra là cái nhà trong cảm giác chúng ta, hạt mưa rơi… trong cảm giác chúng ta có từ đâu, có bản chất gì? Tổng quát phải là câu hỏi về vận vật trong cảm giác chúng ta có bản chất gì?
 Sự sai lầm của một thời đại triết học chính là ở chỗ chúng ta cứ loay hoay đi tìm và tranh cãi về bản chất của những vật trong thực – tồn – bản chất, trong thực tại khách quan giống như phương pháp mà tư duy thông thường cũng như tư duy khoa học đã làm
 Cảm giác như chúng ta thấy thông thường được sinh ra từ sự tiếp xúc trực tiếp của giác quan với sự vật. Cảm giác mặn sinh ra khi tiếp xúc với muối, nên chúng ta thường hiểu lầm rằng:
 1. Mọi cảm giác chúng ta có được là do các vật ấy đem lại (khi có sự tiếp xúc) hoặc các vật ấy tự biểu lộ ra trong cảm giác.
 2. Cảm giác đó là kết quả của quá trình nhận thức của riêng chúng ta về đối tượng bên ngoài chủ thể, tức là về thế giới khách quan.
 Điều này chỉ đúng một phần, thực ra đó là kết quả vận động của toàn bộ Tồn tại đem lại: bộ óc của chúng ta không tách rời khỏi cơ thể, cơ thể không tách rời khỏi môi trường. Do đó mọi suy nghĩ của chúng ta có được về khách thể cũng là của Thế giới: cảm giác ta có về cái mặn là Tồn tại tự biểu lộ mình ra như là mặn ở cảm giác; là thế giới, suy đến cùng đang tự nhận thức về bản thân mình, nhận thức về những mặt, những phẩm chất, những bộ phận của mình. Đó cũng là những hình thái xác định cụ thể của Tồn tại, của thế giới trong tính hiện thực.
 Khi ta nói Tồn tại trong hình thái là xanh, là mặn thì có nghĩa là:
 1. Toàn bộ Tồn tại trong tính quy định là xanh, là mặn, nghĩa là cái xanh cái mặn còn mang theo sau đó, bên cạnh nó toàn bộ tồn tại hiểu như là cái Toàn thể tuỵêt đối mà bản thân nó (Cái mặn..) chỉ là bộ phận, là một tính quy định không tách rời của cái Tuyệt đối ấy, (ngoài cái bộ phận đang diễn đạt ra phần còn lại là toàn bộ đang còn ẩn dấu).
 2. Tính quy định ấy ( tức là cái xanh, cái mặn) phải gắn liền, phải đồng nhất với cái xanh, cái mặn trong ý thức do cái toàn thể tuyệt đối đem lại.
 Tồn tại tự biểu lộ mình ra ở cảm giác, đó là một quá trình chuyển hoá vật chất thành ý thức. Bản chất chuyển mình, đổi mình ra ở Hiện tượng. Quá trình này được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người được hiểu như là điều kiện, là cơ chế của nó. Hình thức hoạt động đầu tiên ta tìm thấy ở lao động tìm kiếm thức ăn và sản xuất ra công cụ lao động.
 Hiện tượng thế giới ở trình độ ban đầu (dĩ nhiên) còn nghèo nàn, chủ yếu là mang tính hiện thực trực tiếp, cụ thể. Do đó nó còn “gần , còn gắn chặt với thực – tồn bản chất, bị phụ thuộc nhiều vào Tồn tại.
 Nhưng dần về sau, hàng nghìn năm chậm chạp trôi đi, thông qua lao động sản xuất đấu tranh với thiên nhiên và xã hội, tính chất của giới tự nhiên, các quan hệ gia đình, xã hội ngày càng bộc lộ nhiều hơn, rằng tri thức con người có được trở lên phong phú về nhiều mặt, sự hiểu biết về khí hậu, thời tiết các mùa, cách gieo trồng, chăn nuôi trong nông nghiệp, những tri thức về khai thác mỏ, nghề mộc, nghề rèn cho đến sự hiểu biết trong các lĩnh vực về kinh tế tài chính cho đến chính trị và quân sự.
 Lúc đầu những tri thức này ở dạng thói quen và những kinh nghiệm được đúc kết sau rất nhiều năm và rồi nó được tổng hợp, khái quát hoá thành các khái niệm và trên đó những hệ thống lý thuyết mới được ra đời.
 Như vậy hoạt động thực tiễn diễn ra đã làm cho tri thức ngày càng được hình thành, củng cố và phong phú. Và hiện tượng thế giới ngày một hút vào trong mình nhiều tính quy định của Bản chất. Tri thức ngày càng một tiến gần chân lý khách quan.
 Thực tiễn đồng thời còn là sự vận dụng, ứng dụng những kinh nghiệm, những tri thức nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống con người, Môi trường sống, hoàn cảnh sống và những điều kiện sản xuất luôn được cải tạo, thay đổi và làm mới ( con người đã biết làm ra nhà cửa, xây dựng làng mạc, thay đổi phương tiện đi lại, cải tạo đất đai khô cằn thành những đồng ruộng phì nhiêu, những công cụ sản xuất mới dùng trong nông nghiệp như cuốc, cày đã thay cho đồ đá, đồ đồng trước đó.
 Đặc biệt là sau thế kỷ 18 trở đi, với sự ra đời của máy hơi nước, nền công nghiệp đã xuất hiện thay cho kỹ thụât sản xuất thủ công, cơ bắp. Thế giới hiện thực như đã có được bộ mặt hoàn toàn mới. Một khối lượng sản phẩm khổng lồ được tạo ra làm thay đổi hẳn nhu cầu về ăn, ở và đi lại của con người cũng như trong các lĩnh vực sản xuất..).
 Quá trình đó là sự chuyển hoá tất yếu, sự phủ định tất yếu Hiện tượng thành Bản chất. ý thức phát triển thành Tồn tại ở trình độ mới ngày càng cao.
 Như vậy trước mắt chúng ta có hai quá trình của một vòng khâu sinh thành của thế giới đã được thực hiện. Sự vận động, phát triển của thế giới là một chuỗi những vòng khâu như thế.
 Nhưng chúng ta cũng phải ý thức sâu sắc rằng vòng khâu sinh thành ấy không phải cứ tuần tự diễn ra đến vô tận như một công thức có sẵn, một quy luật đơn giản của Tồn tại mà trên thực tế, quy luật ấy đã “xuyên qua” rất nhiều bước quanh co và thăng trầm của thế giới.
 Cuộc khủng khoảng của chế độ nô lệ ở Châu Âu, chiến tranh diễn ra liên miên ở Trung Quốc cổ đại; Thế giới trong thế chiến 2, ngày nay là cuộc chiến vùng Vịnh, ápganitan, những xung đột gay gắt ở Trung Đông. Đó là  những hình ảnh tàn khốc và bi thương trong những ấn tượng của chúng ta về lịch sử thế giới.
 Sự khủng khoảng, đổ vỡ của thế giới hiện thực không chỉ diễn ra trong phạm vi lịch sử nhân loại nó còn diễn ra từ một hướng khác, một chiều kích khác.
 Kể từ khi Hiện tượng thế giới đạt được sự phong phú của tính quy định Bản chất cũng như sự phát triển bề ngoài (tức là tính chủ quan) của nó, đã làm cho con người – kẻ mang Hiện tượng thế giới – bứt được mình ra khỏi thế giới ấy và tồn tại như những Hữu thể độc lập.
 Giới tự nhiên trở thành như một đối tượng bên ngoài của quá trình nhận thức, tìm kiếm và khai thác của các hữu thể.
 Sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên cũng như cân bằng sinh thái bị vi phạm nghiêm trọng đã đặt thế giới hiện thực vào một tình huống, một nguy cơ mới. Những nguồn năng lượng để duy trì trình độ bản chất, tính quy định vật chất của Tồn tại ngày một suy kiệt. Cơ sở của thế giới hiện thực đang có nguy cơ bị phá vỡ, phá huỷ.. có thể rồi đây nó phải quay về với Tồn tại Thuần tuý. Trả lời câu hỏi này cũng là sự lo ngại và quan tâm của toàn nhân loại hôm nay.
 Kết luận:
 1. Trong những suy nghĩ của chúng tôi, thế giới ban đầu là Tồn tại Thuần tuý.
 Tồn tại Thuần tuý không phải là cái gì khác mà chính là Vật chất ở trình độ Tồn tại. Tức là trình độ còn đồng nhất  với chính bản thân nó. ở trình độ này, vật chất được hình dung như một khối đồng chất chưa có bất kỳ một sự phân chia nào, một sự khác biệt nào trong bản thân nó.
 Từ trình độ Tồn tại, vật chất phát triển đến trình độ Bản chất, tức là hiện mình ra ở cảm giác, biểu tượng và nói chung là ý thức. Chúng ta có thế giới hiện thực. Đó là sự thống nhất hai mặt vật chất và tinh thần, trong đó vật chất là cơ sở, là nền tảng, là Bản chất của thế giới.
 Cái xanh, cái đỏ, cái mặn được đem lại trong cảm giác là thực- tồn bản chất. Nó là những mặt,những bộ phận hợp thành bản chất (dĩ nhiên Bản chất còn chứa đựng trong nó những vật chưa được biểu lộ ra; chưa đem lại trong cảm giác).
 Còn cảm giác, ý thức đó là Hiện tượng thế giới, và chỉ có nó mới là hiện tượng: sự thống nhất của chúng  là thế giới trong hình thái xác định, cụ thể (Có một giả định về sự tồn tại của người ngoài hành tinh. Kết quả của sự giả định ấy đẩy người ta tới một kết luận rằng ngay từ đầu đã có sự đồng nhất giữa vật chất và ý thức; rằng ở đâu có vật chất là ở đó đã có ý thức. Do đó họ cho rằng quan niệm về sự tồn tại của vật chất ở trình độ Tồn tại (ban đầu) tức là Tồn tại Thuần tuý chỉ là kết quả của một tư duy cắt đoạn: lấy cái ngọn đồng nhất cho cái toàn thể, thay cho cái toàn thể .nhưng chúng tôi hiểu rằng những tư tưởng triết học không thể được xây dựng trên những tiền đề giả định, nó phải xuất phát từ kinh nghiệm thực tiễn, từ những kết quả của khoa học đã được kiểm nghiệm).
 Sự thống nhất này luôn hình thành, phát triển thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta có một định nghĩa:
 a, Con người là bộ phận của lĩnh vực thực – tồn vật chất. Hoạt động thực tiễn do đó là hoạt động mang tính quy định của vật chất, tức là mang tính phổ biến, tất yếu.
 b, Quá trình chuyển hoá qua lại giữa tư duy và Tồn tại trong vòng khâu sinh thành của hiện thực chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn.
 2. “Thế giới” khách quan - được hiểu là lĩnh vực của Tồn tại trong tính bản chất, nó bao gồm giới tự nhiên, con người và xã hội – luôn là đối tượng cua các môn khoa học cụ thể.
 Gần một thế kỷ trôi qua, những hiểu biết triết học của ta từ sơ cấp đến đại học và sau đại học đều xem phần chủ yếu, cơ bản của đối tượng của nó cũng gần giống như các khoa học đó, sự khác nhau của chúng chỉ là ở chỗ có ngoại diên rộng hơn: rằng nó phải đi tìm cái cơ sở chung nhất cho toàn bộ thế giới khách quan ; những quy luật chung nhất cho các lĩnh vực đó của thế giới (giới tự nhiên, con người và xã hội).
 Nhưng thực ra cái “Thế giới khách quan ấy chính là bản chất, là nền tảng của thế giới trong tính hiện thực. Việc chủ nghĩa duy vật hiện đại đi tìm cái cơ sở chung nhất đó và các quy luật như thế là một vòng luẩn quẩn. Hậu quả nó chỉ dẫn chúng ta tới ngõ cụt tối tăm của tư duy triết học.
 Sự khác nhau giữa khoa học và triết học là ở chỗ này: khoa học nhận thức những bộ phận, những lĩnh vực của Tồn tại đã được tư duy chia cắt ra, rằng nó không bao giờ nhận thức được bản thân Tồn tại. Còn đối tượng của triết học là Tồn tại trong tính chinh thể toàn vẹn, trong sự thống nhất giữa vật chất và tinh thần. Chính sự thống nhất này đã sinh ra thế giới hiện thực, hay cũng thế, thế giới hiện thực mới được sản sinh ra, xuất hiện ra. Thế giới vận động và biến đổi trong sự thống nhất ấy được nhận thức - đó là tư duy triết học. Chính trong ý nghĩa này chúng ta nói rằng những suy nghĩ, những tri thức triết học về thế giới ở mức độ nào đó cũng là thế giới đang suy nghĩ về bản thân mình, là sự Tự ý thức của thế giới (1).
 (1) Khi viết những nội dung này, chúng tôi xin cùng chia sẻ với những quan tâm của Yuwujin (Đại học Fudan, Thượng Hải) khi ông tuyên bố rằng thông diễn học duy vật của các nhà nghiên cứu trước đây đối với triết học Marx có thể và cần phải chấm dứt. Nhưng từ chỗ đó, ông đã sai lầm khi cùng với Heidegger, ông đã quy giản triết học Marx về triết học thực tiễn coi hoạt động thực tiễn, hoạt động lao động của con người là ngọn nguồn, là thước đo của vạn vật “mọi tồn tại thể hiện như là vật chất của lao động. Nhưng thực ra ông không hiểu rằng đối với Marx, thực tiễn cũng là tính quy định của Tồn tại. Vấn đề là ở chỗ phải tiếp thu có phê phán những tư tưởng của thông diễn học duy vật và triết học Marx trong thế giới quan mới, trong một sự giải thích mới về thế giới.
 
II.
Hữu thể
 Hiện tượng thế giới trong những giai đoạn khởi đầu còn mang tính trực tiếp của hiện thực. Nó là những dấu hiệu lẻ tẻ, đơn nhất xuất hiện ở trình độ cảm giác, biểu tượng trong đầu óc con người.
 Hàng vạn năm trôi qua của con người nguyên thuỷ, có thể tính từ người tinh khôn, hiện tượng thế giới, tức là tri thức mà nó có được chỉ là những phản ánh trực tiếp, đơn giản những sự vật, thế giới xung quanh trong việc tìm kiếm thức ăn có sẵn trong tự nhiên (hoa quả, tôm cá, thú vật) cũng như trong việc mài, đẽo những công cụ và đồ trang sức bằng đá.
 Cuộc sống của nó từ ăn ở, mặc, đi lại đến việc thực hiện quá trình sản xuất cũng như các quan hệ giao tiếp với cộng đồng, cho đến việc duy trì nòi giống cho chúng ta thấy một bức tranh chung là con người còn gắn chặt, còn lệ thuộc gần như hoàn toàn vào giới tự nhiên giống như các động vật khác.
 Dần dần theo thời gian, cùng với quá trình lao động tri thức của con người về thế giới cũng đã đạt được sự phong phú nhiều mặt: Nó phát hiện ra tác dụng của kim loại đồng và sắt đối với quá trình sản xuất. Nhờ những công cụ mới được làm ra như cuốc, cày dã làm cho các nghề chăn nuôi, trồng trọt và thuỷ lợi trong nông nghiệp, nghề rèn, mộc, gồm trong thủ công nghiệp cũng như việc buôn bán thương mại dần ra đời và phát triển mạnh mẽ trong suốt hàng nghìn năm sau đó.
 Từ những kinh nghiệm, những tri thức dân gian (ca dao, tục ngữ) trong sản xuất, trong chiến tranh quân sự, trong tôn giáo và thi ca được tích luỹ lâu dài đã giúp con người khả năng trừu tượng hoá, khái quát hoá để hình thành lên hệ thống tri thức và lý thuyết mới.
 Hơn hai nghìn năm phát triển, hiện tượng thế giới đã đạt được phong phú đa dạng và tính độc lập trong sự tồn tại của nó.
 Tính độc lập thể hiện ở chỗ xuất hiện một đội ngũ những người lao động trí óc và các ngành học ngày càng chuyên biệt: Thi ca, sử học, thiên văn học, toán học, chính trị học.
 Nếu trước kia ở giai đoạn nguyên thuỷ, hiện tượng trực tiếp sinh ra từ Bản chất, thì giờ đây từ những tri thức kinh nghiệm có sẵn, những mệnh đề, tiên đề có sẵn những kiến thức mới được hình thành, tức là Hiện tượng đã sinh ra từ trong bản thân nó (như trong toán học, định nghĩa về hai đường thẳng // và tiên đề 5 Ơ-clít người ta suy ra hệ quả: hai đường thẳng cùng // với đường thẳng thứ ba thì //).
 Hiện tượng sinh ra hiện tượng, chính khả năng này làm cho nhiều hệ thóng lý thuyết đạt được sự độc lập tách rời với các quá trình của lĩnh vực bản chất.
 Nhưng quá trình sản xuất ra đời sống của mình, tức là phát triển và thoả mãn các nhu cầu về ăn, ở, mặc, đi lại cùng với quá trình đấu tranh xã hội luôn là giới hạn cho sự thống nhất giữa Hiện tượng và Bản chất, giữa Tư duy và Tồn tại. Tức là những chân lý được kiểm chứng, được phát hiện.
 Sự phát triển độc lập của Hiện tượng thế giới luôn được đặt trong những giới hạn đó. Tuy nhiên, do sự tự hình thành nên những giới hạn trên cũng luôn bị phá vỡ (chúng ta tìm thấy điều này rất rõ nét trong những lý giải của người xưa về thế giới, về bản thân mình).
 Sự phát triển của tri thức, của sự hiểu biết của con người đối với thế giới gắn liền với sự mở rộng của quá trình sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp đã làm cho tính lệ thuộc, phụ thuộc gần như hoàn toàn vào giới tự nhiên không những đã mất đi mà nó còn làm chủ được, thống trị được giới tự nhiên trong những mức độ nhất định.
 Trong quan hệ xã hội là sự tan rã của tổ chức nguyên thuỷ: cộng đồng làng xã với những quan hệ láng giềng (bên cạnh quan hệ huyết thống) và tổ chức Nhà nước ra đời.
 Con người không còn là một bộ phận không tách rời của cộng đồng nữa. Chế độ chiếm hữu tư nhân về của cải xuất hiện; mảnh vườn này là của tôi, , còn căn nhà kia là của anh là những ý niệm rất rõ ràng của nó.
 Cùng với ý thức, con người đã biết hành động để bảo vệ, để giữ gìn mảnh vườn, căn nhà và những công cụ sản xuất giản đơn, nhỏ bé cho cuộc sống của mình. Nhờ những của cải, những tài sản riêng này mà đời sống của Y được tồn tại. Ngược lại Y có thể bị rơi vào hàng ngũ những người nô lệ, hoặc bị chết vì đói rét.
 Như vậy ở vào thời kỳ nguyên thuỷ, xét theo bản chất, con người cũng gần như cái cây, hòn đá, con lừa, sự khác nhau chỉ ở hình thái của nó. Rằng chúng cùng là một Bản chất trong những hình thái xác định của Tồn tại.
 Nhưng ở vào thời kỳ lịch sử sau con người đã xuất hiện ra như những tồn tại mang tính quy định cho riêng mình: Một lực lượng tách rời, độc lập, hiện hữu bên cạnh thế giới.
 Tuy nhiên trong thời kỳ này tính độc lập của nó mới chỉ đạt tới trình độ đặc thù.
 Tính chưa phổ biến của tồn tại người thể hiện ở hai mặt. Một là, bên cạnh tầng lớp quý tộc, tầng lớp thị dân và nông dân tự do còn có một giai cấp cơ bản ở vào địa vị nô lệ, hoàn cảnh sống, số phận của họ hoàn toàn phụ thuộc vào giới quý tộc.
 Mặt khác trong nhiều hoạt động sản xuất cải tạo tự nhiên nó mới chỉ thực hiện được bẳng những công cụ thủ công, cơ bắp và sức kéo của gia súc.
 Công cụ đơn giản và kỹ thụât canh tác nghèo nàn (chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, tập quán và phong tục) cứ lặp đi lặp lại như vậy hàng ngàn năm. Sự thất thu của mùa màng, bệnh dịch và thiên tai vẫn hoành hành đe doạ sự sống của con người. ơn trời, nhờ trời là tâm lý phổ biến của con người thời kỳ phong kiến.
 Trong các quan hệ xã hội, gia đình, con người còn bị lệ thuộc nhiều vào chế độ gia trưởng: Lớp trẻ phụ thuộc vào người già, người dưới phụ thuộc vào bề trên và tất cả đều là thần dân của vua.
 Sự phụ thuộc này còn được nâng lên thành các giá trị đạo đức: Con nghe lời cha; vợ chung thuỷ với chồng; bề tôi trung với vua; kẻ sỹ học và làm theo đạo của bậc thánh hiền… được coi là chuẩn mực của đạo làm người.
 Từ thế kỷ 18 trở đi, thế giới như có sự thay đổi về chất. Sự phát triển mạnh mẽ của các ngành khoa học tự nhiên theo hướng thực nghiệm đã làm cho con người hiểu biết ngày càng nhiều hơn, phong phú hơn các tính chất và quy định của thế giới như các quy luật vận động cơ học, điện, cảm ứng điện từ, tính chất của ánh sáng; các tính chất, phản ứn hoá học của các chất cho đến sự tồn tại của các giống loài.
 Nhờ những phát hiện này về mặt lý thuyết mà quá trình sản xuất luôn được mở rộng. Đặc biệt với sự ra đời của máy động lực và máy công cụ, thế giới bước vào cuộc cách mạng kỹ thụât lần thứ nhất, giới tự nhiên từ trên rừng, trong lòng đất cho đến những khoảng không bao la đều được con người tìm hiểu, khai thác và chiếm đoạt với một khối lượng khổng lồ chưa từng có (như chúng ta đã nói ở phần I).
 Từ những điều trình bày trên có thể thấy rằng Hiện tượng thế giới không chỉ ngày càng đạt được tính độc lập mạnh mẽ mà nó còn mang vào trong mình sự phong phú của tính Bản chất: lĩnh vực Bản chất bị hút”, bị “tát cạn”  nhiều hơn vào Hiện tượng.
 Nhờ kết quả này, con người từ thế kỷ 19 đến nay xuất hiện như một lực lượng độc lập,  bên ngoài. Còn giới tự nhiên như một khách thể, một nguồn của cải vô hạn trong sự khai thác, sự chiếm đoạt, cải biến của nó.
 Trong xã hội, tầng lớp những người nô lệ, nô tỳ bị xoá bỏ hoàn toàn; không còn tầng lớp những nông nô bị giằng buộc vào các chúa đất, những nông dân phụ thuộc vào đất công làng xã. Quan hệ ruột rà máu mủ, ơn hụê, quan hệ trên dưới, quân – thần cùng với hàng trăm xiềng xích khác của chủ nghĩa phong kiến bị tuyên án. Quan hệ trực tiếp giữa người và người trong gia đình, làng xóm, bằng hữu, nghề nghiệp giờ được thực hiện gián tiếp thông qua quan hệ hàng – tiền.
 Con người đã tự do; tự do chiếm đoạt, mua bán tài sản, tự do sở hữu tư nhân các tư liệu sản xuất; tự do mua bán sức lao động; tự do trước những quyết định của mình. Nhu cầu tự do đã được ghi nhận vào trong Hiến pháp như những quyền sống cơ bản của con người (dĩ nhiên khả năng và thực tế thực hiện cuộc sống tự lập, tự do này không phải là đồng đều như nhau với tất cả mọi người ở mọi nơi trong xã hội và trên thế giới. Còn rất nhiều những người lao động; cũng như việc còn nhiều quốc gia lạc hậu, nghèo khó bị chủ nghĩa thực dân đô hộ, áp bức mà đến tận nửa cuối thế kỷ 20 mới dành được tự do, thoát khỏi sự thống trị của nó. Tuy nhiên, tất cả những điều đó, không làm mất đi ý nghĩa con người như một Tồn tại độc lập, tự do thực hiện khả năng chiếm hữu tư nhân trước thế giới mà những thiên niên kỷ trước đó nó không có được sự phân tích của chúng tôi).
 Nhờ mang hiện tượng thế giới diễn ra trong sự phân đôi giữa Bản chất và Hiện tượng ngày càng mạnh mẽ mà con người có được năng lực tách mình ra khỏi thế giới và người khác như một lực lượng độc lập, một thế giới độc lập. Quan hệ giữa con người và thế giới cũng như giữa nó với người khác không phải là giữa các bộ phận của thế giới với nhau cũng như cái bộ phận với cái tổng thể. Mà đây là quan hệ cướp đoạt, chiếm hữu, lừa đảo, hoặc đối thoại, trao đổi ngang nhau giữa các tồn tại riêng biệt, hiện thực riêng biệt nhằm duy trì sự tồn tại lớn mạnh của chính mình. Con người hiện đại, có thể nói, đó là một tồn tại xuất phát từ bản thân và hồi quy vào chính mình.
 Tính độc lập tách rời của con người trước thế giới ngày nay càng lớn bao nhiêu thì sự cạnh tranh giữa nó càng khốc liệt bấy nhiêu. Cuộc sống của nó dường như tất cả được đặt vào các quyết định của chính mình.
 Cuộc sống của nó nghèo nàn, không anh em, không bạn bè thân thích, không vợ con có thể đem lại trong nó cảm giác yếu đuối, bất an và cô độc, sự mất mát, sự thất bại nhều lần có thể dẫn Y đến với sự đau khổ, tuyệt vọng và cái chết. Đối xử với nhau như các phương tiện, sự mưu mô và tàn nhẫn sẽ đem lại trong Y kinh nghiệm và những thủ đoạn sống; sự  ổn định, sự tăng tiến trong nghề nghiệp, trong nấc thang địa vị xã hội sẽ đem lại trong Y sự yên tâm và những lời nói tốt đẹp trước đám đông.
 Nói tóm lại cái tồn tại của Y, cuộc sống của Y là vợ con, nhà cửa, tiền bạc và các phương tiện sinh hoạt, công cụ sản xuất cùng các quan hệ xã hội, nghề nghiệp và địa vị đã được Y sở hữu riêng ra như thế, tách riêng ra như thế sẽ được tự biểu lộ trong những suy nghĩ, những ước mơ, trong những quan niệm và thái độ của Y đối với cuộc sống.
 Nếu chúng ta đã hiểu rằng thế giới là một bản chất chính là chỗ Tồn tại tự biểu lộ mình ra ở cảm giác và ở những suy nghĩ, thì rõ ràng mỗi một tồn tại người, trong sự phân tích của chúng ta, nó cũng là những Bản chất: Vì mình – cho mình.
 Khác với hòn đá, cái cây, con vật, mặt trời, măt trăng – chúng chỉ là những bộ phận của Thực – Tồn – Bản chất, chưa bao giờ với tính cách đó, chúng là một Bản chất, có bản chất, và cũng chưa lúc nào ở trong chúng có một sự tồn tại độc lập, riêng rẽ. Con người là một bản chất, một thực tại hữu hạn, riêng biệt bên cạnh Tồn tại .Ta gọi đó là những hữu thể.
 Dĩ nhiên trước đó Y cũng là một bộ phận của Bản chất, do Tồn tại sinh ra, quy định. Rằng không một ai trong chúng ta được tự mình lựa chọn hoàn cảnh sống cho mình.
 Nhưng khi Y đã trưởng thành và tồn tại với tư cách là một hữu thể. Y không bị lệ thuộc, không bị trói chặt vào cái Bản chất (nguyên sinh) như một định mệnh nghiệt ngã.
 Xã hội hiện thời đang tạo ra nhiều chính sách, cơ chế và điều kiện cho đời sống hữu thể vươn lên thể hiện tài năng, nội lực trong sự phát triển bản chất và nhân cách của nó.
 Hữu thể, nghĩa là bản chất luôn được tạo ra, được làm mới bởi ý chí, bởi quyết tâm và khát vọng của mình.
 Nhiều cuộc đời nghèo khó đã được thay đổi nhờ vào thời cơ và những nỗ lực trong đời của nó. Nhưng cũng nhiều hữu thể cũng đã tự xoá bỏ bản chất của mình chỉ vì những ham muốn tầm thường không vượt qua được, chỉ vì đem đặt bản chất của mình vào những quyết định mạo hiểm nhiều rủi ro hoặc trong những toan tính của tính chất đỏ đen.
 Hữu thể, chứ không phải con người cá nhân trong sự phân tích của chúng tôi. Bởi vì tồn tại của anh ta, trong bản chất của anh ta có bao hàm cả vợ, con, nhà cửa, tiền bạc, các tư liệu sản xuất, các quan hệ và địa vị đã được tách riêng ra, sử dụng riêng ra như thế.
 Với tính cách hữu thể, mỗi một con người là rời nhau. Tha nhân và y đó là những đối tượng chiếm hữu lẫn nhau, sử dụng lẫn nhau hoặc trao đổi cạnh nhau cùng tồn tại và phát triển vì  - mình và cho – mình.
 Chiếm đoạt, khủng bố, ly khai hay tôn trọng sự tồn tại của nhau cùng liên doanh, liên kết, tự do và bình đẳng trong quan hệ giữa các hữu thể và nét chủ yếu của xã hội hiện đại, của lịch sử hiện đại.
 Nội dung cụ thể của các quan hệ này như thế nào, suy đến cùng, là do cái xã hội hiện tồn, khu vực và thế giới bên ngoài quy định.
 Với tư cách là con người mang hiện tượng thế giới, mỗi một chúng ta chỉ là những biểu hiện khác nhau, biến thể khác nhau của Tồn tại; là hình thái xác định cụ thể của cùng một bản chất trong tư duy, trong cảm giác.
 Nhưng kể từ khi mỗi một chúng ta được sinh ra từ trong quy luật phân đôi của thế giới, chúng ta đã là những thực tại độc lập – nghĩa là tôi và anh không phải là những cái riêng, những hình thái của một bản chất – và luôn sáng tạo ra bản chất của mình bằng cách chiếm lấy cái bên ngoài nó (bằng sự chiếm đoạt, hoặc trao đổi).
 Trong ý nghĩa đó, và chỉ trong giới hạn đó, ta nói lịch sử có yếu tính đa nguyên. Đa nguyên đang là một quy luật chi phối xã hội hiện đại - đó là điều không thể lẩn tránh. Chính nó đã và đang thúc đẩy lịch sử các dân tộc hiện đại tiến lên.
 
III.
Không gian và thời gian

 Vì không có sự lựa chọn đúng đối tượng nghiên cứu của mình, vì những quan niệm sai lầm về thế giới nên cũng dẫn chủ nghĩa duy vật hiện đại tới những kiến giải lệch lạc về hính thức tồn tại của nó, về thời gian và không gian của thế giới hiện thực.
 Thời gian biểu thị quá trình biến đổi của sự vật. Sự vật trôi đi từ quá khứ – hiện tại và tương lai. Ngày, giờ, năm, tháng là những đơn vị đo khoảng dài ngắn của thời gian.
 Còn không gian là nói tới độ to nhỏ, cao thấp, khoảng cách giữa các vật.
 Chúng ta phải nói ngay rằng đây là không, thời gian của vật lý học khi nó nghiên cứu về sự vận động và biến đổi của các vật ở lĩnh vực thực tồn Bản chất.
 Thế giới hiện thực, như chúng ta đã trình bày ở trên, do đó không, thời gian của nó nhất thiết phải có mặt của ý thức, có sự tham gia của đời sống thực tiễn con người.
 Chúng ta hiểu thời gian nói nên sự lâu (chóng); trình tự trước – sau của Hiện thực và chúng ta cảm nhận nó thông qua sự biến đổi của đời sống chúng ta cũng như đời sống xã hội.
 Thời gian sẽ như ngừng lại, trôi đi chậm chap nếu các đồ vật quanh ta , cách thức mà chúng ta sản xuất hầu như không thay đổi từ năm này qua năm khác. Đây cũng là nét đặc trưng của thời gian ở con người phong kiến, thời đại phong kiến.
 Thời gian sẽ không trôi theo một hướng từ quá khứ -> hiện tại -> tương lai. Ngày, giờ, năm, tháng là những đơn vị đo của thời gian vật lý, nó không phải là đơn vị đo của thời gian hiện thực (hay gọi là thời gian triết học) nhưng giữa chúng không có sự tách biệt nhau. Chúng ta vẫn dùng nó như một đại lượng ám chỉ sự trôi đi của thời gian hiện thực mà chúng ta sống trong đó.
 Nếu thời gian biểu thị tốc độ biến đổi của hiện thực, thì không gian biểu thị sự rộng, hẹp của thế giới trong quá trình phát triển thông qua hoạt động thực tiễn của con người và cũng như thời gian ,thông qua hoạt động đó Y sẽ cảm nhận được rõ nhất tính không gian của đời sống hiện thực.
 Như chúng ta nói ở trên, thế giới trở nên ngày một phong phú tính quy định chính là nhờ vào những hoạt động thực tiễn của con người.
 Sự phát triển phong phú của đời sống tinh thần và của các tiện nghi, đồ vật, công cụ sản xuất và cách thức mà con người tiến hành sản xuất nói lên không gian của thế giới ngày càng mở rộng và đa chiều.
 Con người đặt chân tới đâu, hoạt động thực tiễn của mình vươn tới đâu thì khong gian được mở rộng tới đó. Ngược lại những hoạt động sản xuất, giao tiếp của con người bị cản trở, bị ngăn cấm, bị chiếm đoạt thì khi ấy Y cảm nhận rõ nhất những giới hạn của không gian.
 Hoạt động của con người nói chung ngày càng mở rộng trên nhiều lĩnh vực: Hoạt động sản xuất ra đồ vật, hoạt động văn hoá, hoạt động giáo dục, giao tiếp. .. tôi gọi mỗi hoạt động đó là một chiều của không gian. Con người phải đặt mình vào các chiều không gian đó. Khi đời sống và hoạt động của Y được diễn ra, thực hiện trong các chiều kích đó: Chúng ta bảo không gian của Y là ổn định.
 Con người phong kiến, xã hội phong kiến có một không gian chật hẹp, đơn chiều, ổn định(*).
 Không gian con người hiện đại đa chiều và mở rộng nhưng lại xuất hiện nhiều yếu tố bất ổn, nhiều khoảng trống xuất hiện. Đặc biệt ở những xã hội mà ly hôn,  tội phạm và khủng bố gia tăng. Không gian có thể bị co hẹp lại, bị bẻ gãy vụn ra vào bất cứ lúc nào. Đây là nét đặc trưng của thế giới hiện đại.
 (*) Dĩ nhiên khi xã hội cổ xưa lâm vào những thời kỳ khủng khoảng trầm trọng thì không gian của thế giới hiện thực cũng thường bị bẻ gãy, vị đổ vỡ, cuộc sống của con người khi ấy trở lên mong manh và nhiều bi kịch.
  
Phụ chú
Hiện tượng trong chủ nghĩa duy vật hiện đại

 Việc tìm hiểu các sự vật, tìm hiểu bản chất của thế giới, theo lẽ thông thường, tư duy của chúng ta bắt đầu từ các hiện tượng. Từ hiện tượng, được chúng ta nhận thức bằng cảm giác. Một quá trình nhận thức diễn ra sau đó dẫn chúng ta dò tìm đến bản chất, đến nguồn gốc phát sinh ra các hiện tượng đó.
 Hiện tượng được chúng ta nói đến ở đây là gì? Trước hết nói đến các hiện tượng tự nhiên như sự sống của cây, hạt mưa rơi, độ ẩm không khí, gió…
 Hiện tượng được tư duy triết học quan niệm như thế nào? Chúng ta bắt đầu từ Kant. Theo ông, hiện – tượng – thế – giới được tạo bởi từ hai nguồn gốc. Nó là sự kết hợp từ “Vật tự  nó, do Vật tự nó biểu hiện ra. Nhưng cái này chỉ là cái gì đó còn lộn xộn, không hình thù, không màu sắc. Theo ông nó chỉ là chất liệu và phải nhờ có ý thức tiên nghiệm ( và trước đó là không – thời gian, một hình thức của tồn tại có tính chất tiên thiên) nó mới hiện ra là hiện – tượng – thế – giới. Nghĩa là thế giới mới như là thế này hay thế kia.
 Nói cách khác, nhờ có ý thức tiên  nghiệm mà hiện tượng mới xảy ra, diễn ra trong không gian và thời gian theo đó các quy luật của giới tự nhiên mới hình thành.
 Như vậy hiện – tượng – thế – giới, theo Kant, bản thân nó có hai phẩm chất, diễn đạt theo cách nói của chúng ta là vật chất và tinh thần. ở đó vật chất được hiểu như mặt ngoài, như là cái vỏ còn tinh thần như là linh hồn bên trong, là động lực, là sức sống, là bản chất của chúng.
 Nhưng sự kết hợp này là lỏng lẻo, chứa đựng nhiều mâu thuẫn không lý giải được ngay trong bản thân hệ thống triết học của ông. Dù là thế nào, trên quan điểm lịch sử chúng ta cũng phải thừa nhận việc phát hiện ra hai tính chất trong hiện – tượng – thế – giới của ông là một giá trị lớn lao.
 Kế thừa tư tưởng triết học của ông về tính hai mặt của hiện tượng, Hêgel đã phát triển một cách triệt để. Theo ông, vật tự nó của Kant là thừa. Ông đã cắt bỏ cái đuôi đó đi để đến một kết luận: Các hiện tượng tự nhiên và xã hội chỉ là Tồn – tại – khác của ý niệm tuyệt đối, là sự chuyển hoá, hoá thân, tha hoá của ý niệm sau khi đã trải qua giai đoạn phát triển đầy đủ trong bản thân nó.
 Như vậy, đối với Hêgel, cũng như Kant, các ông đã nhìn thấy rõ tính hai mặt của hiện - tượng – thế – giới : vật chất là hiện tượng chứa đựng trong bản thân nó, đồng nhất, thống nhất trong bản thân nó hai mặt đối lập, tính bản chất (tức ý niệm tuyệt đối) và tính bề ngoài – tức là tính vật chất.
 Dựa trên việc thừa nhận tính tinh thần của hiện tượng, các ông đã giải quyết được vấn đề khả năng nhận thức được của tư duy đối với Tồn tại, với hiện tượng (dĩ nhiên là trên quan điểm duy tâm).
 Chủ nghĩa duy vật hiện đại hiểu như thế nào về hiện tượng?
 Cái xanh, cái đỏ, cái bàn, hạt mưa rơi được hiểu là  hiện tượng vật chất, và vật chất là bản chất của chúng. Trong chúng không có tính tinh thần, ý thức nào.
 Tinh thần không phải là một tính quy định của các hiện tượng đó. Đúng là tinh thần không chứa đựng ở trong cái xanh, cái đỏ, cái bàn, hạt mưa rơi, gió thổi.. Nhưng làm thế nào thông qua hoạt động thực tiễn mà tư duy con người có thể trở thành hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan? Làm thế nào mà tư duy chúng ta có được sự phù hợp với các hiện tượng đó?
 Chúng tôi khẳng định rằng, trong tính hiên thực, tinh thần là một tính quy định (cố hữu) của Hiện tượng. Nói đầy đủ hơn ý thức, tinh thần mới là hiện – tượng – thế – giới.
 Đánh mất tính ý thức của hiện tượng, trong hiện tượng, chủ nghĩa duy vật hiện đại đã bỏ qua hiện tượng thế giới  ( và do đó cũng là thế giới) trong tư duy lý luận của mình.
 Có thể nói, Chủ nghĩa duy vật hiện đại là tư duy về một thế giới không có thế giới, về con người không có con người.50 năm qua ta đã đi dưới ngọn đuốc soi đường như thế, nên ta chỉ thấy sự tối tăm, sự sa đoạ và cái ác tràn đầy.
 Cái xanh, cái đỏ, cái vàng mà chúng ta vẫn gọi là hiện tượng vật chất, về thực chất chúng không bao giờ là hiện tượng mà chúng chỉ là những mặt, những bộ phận hợp thành của Tồn tại, của vật chất, tức là của bản chất.
 Trong khát vọng về một thế giới đa nguyên luận chúng tôi quan niệm ,rằng thế giới vật chất ban đầu là tồn tại thuần tuý.
 Qua hàng tỷ năm biến đổi, tồn tại thuần tuý mới đạt đến trình độ tự biểu lộ mình qua cái Khác, Tồn – Tại – khác. Đó là ý thức,  là tinh thần.
 ý thức, tinh thần là tồn – tại – khác của vật chất. Nhờ biểu hiện mình qua ý thức mà vật chất mới trở thành Bản chất, tức là thế giới mới hiện mình ra như là thế này hay thế kia.
 Hiện mình qua ý thức và bằng ý thức, thế giới mới là cái xanh, cái đỏ, cái vàng, hạt mưa rơi.
 ý thức, tinh thần chính là cái bề ngoài, cái hiện tượng của thế giới nhờ đó nó mới xác định mình, quy định mình như là cái xanh, cái đỏ, cái vàng ấy.
 Chủ nghĩa duy vật hiện đại đã quan niệm rằng ý thức là sản phẩm của quá trình nhận thức chủ quan của con người về thế giới thông qua hoạt động thực tiễn.
 Nhưng thực ra, trong một chừng mực nào đó chúng ta có thể và cần phải nói rằng con người không phải là kẻ nhận thức thế giới mà chính là Tồn tại, là Thế giới nhận thức bản thân mình, nhận thức những mặt, những thuộc tính của mình thông qua con người: con người là kẻ mang Hiện - tượng -  thế -  giới.
 Vì là biểu hiện ra của vật chất (khi vật chất đã đạt tới trình độ cao. Bộ óc con người là dẫn chứng cho trình độ đó), nên giữa hiện tượng và bản chất vừa khác nhau mà vừa đồng nhất, thống nhất.
 Nói cách khác, ý thức là hiện – tượng – thế – giới, trong tính hiện thực của mình nó chứa đầy tính vật chất (1).
 Về mặt bản thể học, tính thống nhất giữa vật chất và ý thức là ở tính xác định của Tồn tại và sự khác nhau giữa chứng là ở tính không – tồn – tại của ý thức.
 Nếu xét theo quá trình nhận thức sự đồng nhất giữa chúng  là ở tính khách quan và sự khác nhau là ở tính chủ quan.
 Xưa nay chúng ta vẫn có quan niệm đồng nhất tính chủ quan với ý thức, nhưng ý thức như vừa trình bày, nó là sự thống nhất của hai phẩm chất: khách quan và chủ quan.
 Nhờ có tính khách quan mà ý thức mới có khả năng phù hợp với Tồn tại (thông qua hoạt động thực tiễn): mới có khả năng, như chúng ta vẫn thấy xưa nay là thâm nhập được vào tồn tại, cái biến tồn tại.
 Xét trên quan điểm bản thể học, điều đó chẳng qua chỉ là sự chuyển hoá qua lại, sự phủ định lẫn nhau, là cuộc đấu tranh giữa bản chất và hiện – tượng – thế – giới mà thôi.
 Không có tính chủ quan của hiện tượng thì không có bất kỳ sự khác biệt nào giữa ý thức và tồn tại. Nhưng cũng phải thấy rằng không có tính đồng nhất, tức là tính khách quan – vật chất thì mọi ý thức của chúng ta, mọi tri thức của chúng ta về thế giới đều là giả (2).
 Hiện – tượng – thế – giới, dĩ nhiên ban đầu phải do Tồn tại sinh ra, là biểu hiện trực tiếp của tồn tại, do đó nó còn gắn chặt vào tồn tại, phụ thuộc nhiều vào tồn tại. Qua quá trình phát triển lâu dài hàng nghìn năm về sau, hiện – tượng – thế – giới – mới có được sự tồn tại độc lập. Nhờ khả năng này mà về sau hiện tượng thế giới được sản sinh ra như từ hai nguồn gốc: Từ bản chất, tức là từ lĩnh vực của Tồn tại và từ trong bản thân nó, tức là trong quá trình nhận thức.
 Chính vì vận động trong bản thân nó, nên không phải lúc nào ý thức cũng đồng nhất với tồn tại, nghĩa là không phải lúc nào và ở đâu nó cũng mang vào trong mình phẩm chất vật chất – khách quan. Chủ quan – duy ý chí, xa rời Tồn tại là sức mạnh nội tại của nó nhưng cũng là điểm yếu, chính nó đã tạo ra những hiện – tượng – thế – giới giả.
 (1) Tính vật chất của  ý thức ở đây không phải hiểu như là gan tiết ra
(2) Lenin đã đúng khi chỉ ra thực tại khách quan được đem lại trong ý thức.   
   Nhưng ông đã sai lầm khi vạch ra một ranh giới tuyệt đối, một sự phân đôi tuyệt đối giữa chúng (ngay dù vẻn vẹn trong giới hạn của lý luận nhận thức).