10 bài thơ của Trần Xuân An
Trần Xuân An
Chủ nhật ngày 12 tháng 1 năm 2014 4:21 PM
Bài 1
NGHĨ VỀ CÕI ANH LINH ĐẠI TƯỚNG
mỗi năm mươi cơn bão,
Miền Trung!
Người vẫn chọn nơi yên nghỉ cuối cùng,
trông ra biển đảo
chọn lựa của nỗi đau đại dương muôn trùng
một trăm ba mươi mốt năm (*)
xương chưa hề khô
máu chưa từng ráo
bởi đang còn Hoàng Sa rưng rưng!
Gạc Ma và những hòn nổi bãi chìm
còn rơi vào cuồng bạo!
nên Vũng Chùa - Đảo Yến, không xa quê gốc nhớ nhung
sẵn sàng thế đất sáng bừng:
công sự chỉ huy tầm đạn đạo
Người cũng muốn mộ phần mình
sẵn sàng làm bệ pháo
phóng muôn nghìn chớp lửa
hào hùng.
14:26, 12-10 HB13
(*) 1858-1989
Bài 2
MỘT NGÀY THƠ
QUANH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGÃ BA GIỒNG
sử xanh, đây, Ngã Ba Giồng
tượng đài cọc bắn máu hồng đơm xanh
xanh cây đến cỏ đất lành
trăm ba mươi mốt năm (*) thành cõi thiêng.
XỨ BÀ ĐIỂM
trầu cau ngát đất cơ duyên
mười tám thôn đỏ lời khuyên vua Hùng
xa Đất Tổ, xa Miền Trung
tới đây, thắm đến vô cùng Vịnh Xiêm.
ĐƯỜNG HẦM THỦ THIÊM
nối Sài Gòn với Thủ Thiêm
bằng cây sáo óng dưới niềm xanh sông
mỗi xe mỗi nốt nhạc hồng
véo von lòng trúc chứa mông mênh trời.
ĐOÁ BÔNG BỐN PHƯƠNG
ngồi bên cao ốc cao vời
thấy hồn sử trong mắt ngời trẻ thơ
và lục bát tự cổ sơ
toả bốn phương nở bốn đô thị hồng.
06 – 09-9 HB13
________
(*) 1858-1989
Bài 3
MỘT TUỔI LÒNG MẸ
VÀ NĂM MƯƠI BẢY TUỔI ĐỜI
mỗi chặng đời mười chín năm
ngày mặt trời này (dấu mốc ban sơ thân thương)
ngày mặt trăng này (đậm sâu đầu tiên vết khấc)
cùng hẹn gặp, như trên tờ lịch tinh khôi (*)
khai sinh chào đời ngày thứ nhất
tuổi mười chín lá ửng hồng
ba tám thắm xanh
năm bảy thẫm xanh, mặc sương nhuốm bạc
và sẽ bảy sáu, lá vàng, tóc mưa ướt mắt
rồi biết đâu, còn có tuổi chín lăm ngả nâu
lá tịnh tâm về cội đất
cứ mỗi chặng đời mười chín năm
này đây, ngày lịch dương, nguyên đán phận người
này đây, ngày lịch âm, đời riêng tết nhất (**)
không phải số căn cước, chứng minh khô khan
không phải số điện thoại tôi lỡ tay thất lạc
là ngày giờ ngẫu nhiên thành số phần
đẹp chung một lần sinh nhật
tôi ơi, tôi lặng nói với mình
nếu tuổi đời như ước lệ, trăm năm
có đến năm lần (nhân mười chín năm)
hát khẽ, sôi trào – hát thầm, trầm mặc
vì khi lọt lòng chào thế gian
ai cũng trót ngỡ ngàng oà khóc
(xin cứ nghĩ sơ sinh ngợp thở bởi hân hoan)
vừa tròn chín mươi triệu người Việt Nam
(đã mấy tỉ người trên trái đất?)
mình người thứ bao nhiêu, hẳn đâu khó biết
(máy tính nếu thống kê, nhân loại như dân làng!)
và dẫu ngày sinh, giờ sinh, phút sinh trùng hợp
vẫn mỗi người, một số phận độc nhất
ba chặng đời mười chín năm
sinh nhật lần này, bóng hạc mẹ cha đều đã khuất
nhớ ơn, lặng thầm thắp một nén nhang
rồi bên vợ con, chuyện trò quên bẵng gian nan
hát thơ ca bằng ánh mắt
phân bua sinh kế bằng tiếng cười vang:
– đời cầm bút, sách báo là hạnh phúc –
sinh nhật, vẫn chỉ bữa cơm đầm ấm nhẹ nhàng.
03-11 HB13 [2013] (01-10 Quý tị)
(*) 1956, 1975, 1994, 2013, 2032, 2051 (cách nhau 19 năm) đều có ngày 10-11 dương lịch nhằm ngày 08-10 âm lịch.
(**) 09: 08-10 # 10-11 hay 09: 10-11 # 08-10.
Bài 4
NẾN VÀ BÃO
bão huỷ diệt nhất vạn năm – dự báo
đổ bộ vào đất sinh nhật thiêng liêng
bình tĩnh nhé, đối đầu cùng siêu bão
vững trái tim, giằng chống xoáy ngả nghiêng
trong năm tám ngọn nến hồng sinh nhật
búp lửa tươi tuổi lòng mẹ, bình yên
nên khay nến lung linh nơi tâm tưởng
nhớ quê nhà giữa bão, sáng y nguyên
nến sáng lòng, nhờ Miền Trung chống bão
suốt ngàn năm, không tắt lửa lưu niên
gió giật, mưa cuồng, sá chi sinh nhật
nhưng nến bình tâm, siêu bão phải hiền
bão có thể lệch chiều qua hướng khác
bình tâm không là luỹ cản đương nhiên
mỗi người giữ lửa Miền Trung mọi tuổi
bình tâm nở sinh sức sống vô biên.
09: – 10:56 – 15:10, 09-11 HB13 (2013)
Viết khi nghe tin dự báo siêu bão Hải Yến (Haiyan), có sức huỷ diệt khủng khiếp nhất lịch sử, sẽ tràn vào Huế và các tỉnh Miền Trung nước ta sau khi càn quét Philippines.
Bài 5
KÍNH GỬI PHILIPPINES
gần kề nơi sâu nhất mọi đáy biển sâu
quần đảo ngàn năm dập dồn bão táp
nơi che đỡ Hoàng Sa, Trường Sa
của dọc dài Việt Nam biển biếc
nơi ấy, cũng sáng rõ mắt nhìn “lưỡi vạch”
cùng cao nhất kiên tâm?
lúc này đây, Tacloban
dẫu thiên tai tan hoang, nước mắt chảy ròng
càng ước mong trí tuệ và khổ đau điêu khắc
dựng tượng đài ngọn lửa kiên tâm
tươi hồng nhất
tim bấc thả vào đáy biển Mindanao (*)
sâu trong ruột đất. Lúc này đây...
cánh tay Philippines ôm giữ Biển phía Tây
cánh tay Việt Nam ôm giữ Biển phía Đông
cùng một biển
hai gọng kềm trui rèn trong bão táp
tận cùng khổ đau thiên tai
giữa địch hoạ, sục sôi lửa lò luyện thép
chất người ASEAN
là gọng kềm siết chặt
cũng là thân ái nhất
đôi tay vỗ sóng nhịp nhàng.
08: – 11:05, 13-11HB13 (2013)
(*) Mindanao, tên của một phần lãnh thổ Philippines và cũng là tên của một đáy biển sâu từng nổi tiếng là sâu nhất nhì thế giới, gần kề đảo quốc này. Đáy sâu Mindanao (The Mindanao Deep) còn được gọi là Điểm sâu Galathea (The Galathea Depth).
Bài 6
KHI BIẾT TIN
NĂM NGUYỄN DU TOẢ SÁNG KHẮP THẾ GIỚI
Biểu hiện Nguyễn Du
nhất thống hai Đàng, ba bão thép
núi xương, sông máu, bút bơ vơ
nếu thù Nguyễn Nghiễm, vua tru – Giết
Đất nước chỉ còn góc túi thơ!
người gỗ, cần chăng? hay kẻ sĩ
suy tư mưa nắng, gió tâm tư?
suốt đời thi sĩ, thơ thao thức
thao thức, mới làm nên Nguyễn Du!
thuở sẵn ngục văn chờ án chữ
niềm riêng cứ thắp, gọi hồn chung (1)
phận người lay lắt, sương che máu
nội chiến – ngoại xâm, cổ nghẹn khung…
hai tập tự thơ (2), hai thế cuộc
cỏ bồng héo tóc, cúc quỳ phai
"Bắc hành..." (3) thơ sử, thơ tràn, lắng
kẻ mạt, người hùng... Thương, quý ai...
đọc để hiểu xưa, ai đẫm mắt
vừa tanh sấu khóc giữa tâm mình?
Nguyễn Du toả sáng và soi sáng
Tổ quốc lung linh trái đất xinh (4).
02: – 16:12, 18-11 HB13 & 21 & 29-11 HB13
(1) “Văn tế thập loại chúng sinh” (“Văn chiêu hồn”).
(2) "Thanh Hiên thi tập", "Nam trung tạp ngâm" là hai tập thơ chữ Hán hầu hết Nguyễn Du viết về chính ông (tự thơ = tự truyện).
(3) "Bắc hành tạp lục" là thi tập chữ Hán thứ ba của Nguyễn Du, viết trong thời gian đi sứ sang Trung Hoa, 1813-1814.
(4) Tin TTXVN.: Cuối thượng tuần tháng 11, 2013, tại kì họp lần thứ 37, diễn ra ở thủ đô Paris (Pháp), Ðại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa LHQ. (UNESCO.) đã ra Nghị quyết vinh danh đại thi hào Nguyễn Du của Việt Nam cùng với nhiều danh nhân văn hóa khác trên thế giới, trong hai năm 2014 và 2015.
Để tránh những ngộ nhận đáng tiếc, xin thưa trước: Đây là một trong ba bài thơ biểu hiện tâm thế, hành trạng của Nguyễn Du (1765/1766-1820) trong thời đại của chính thi hào.
Bài 7
VỚI BA ĐOÁ BIỂU TƯỢNG THIÊN TÀI
Biểu hiện Nguyễn Du
thương Kiều, nhạc sĩ và thi sĩ
hương đất trời và hoa nước non
hết khổ, thương nàng Thanh (1) khổ khác
rợn tranh linh sắc, thơ thiêng hồn
thường chăng, gái lẽ hay ca kĩ (2)
nếu nỗi đắng đời, Thanh vắng thơ
nếu chẳng thiên tài, nhơ tục luỵ
nhạc Kiều không sáng thật bao giờ?
Nguyễn Du ngẫm mình qua hình tượng
một thuở giao thời đau vạn năm
quằn quại thiên tài trong vận nước:
Kiều, Thanh đời nát – thương tâm Cầm! (3)
thiên tài bút hay thiên tài kiếm?
ném kiếm Trịnh – Lê, hết nghĩa rồi!
tự cứu, cứu dân, thơ đứt ruột
sáng chưa quyền sống – quyền làm người?
buồn trông biến dịch, đau triều cũ
ngoảnh tiếc Quang Trung – Từ Hải chăng?
Nhà Nguyễn, hai Đàng yên máu lửa
thơ ông thầm thét hỏi công bằng?
thương Kiều, thương Thanh – thương Cầm đó
tâm sáng, thương mình – thương cõi đời
nguồn lệ xưa sau còn mặn biển
dịu tươi trái đất, thiên tài ơi!
02:, 04-12 – 08:30, 07-12 HB13 (2013)
(1) Tiểu Thanh trong “Đọc bài kí Tiểu Thanh” (“Độc Tiểu Thanh kí”). Kiều và Tiểu Thanh đều là hình bóng nàng Cầm (3), nguyên mẫu đã được nâng lên thành biểu tượng trong thơ Nguyễn Du...
(2) “Bài từ hành lạc” (“Hành lạc từ”), bài hai; “Bài ca trúc chi ở đất Thương Ngô” (“Thương Ngô trúc chi ca”), trong mười lăm bài...
(3) Nàng Cầm trong “Bài ca về người đánh đàn ở Thăng Long” (“Long thành cầm giả ca”). Xem thêm: “Viếng đào nương ở La Thành” (“Điếu La Thành ca giả”)...
Bài 8
TRUYỆN KIỀU VÀ DẤU HỎI CỦA TÔI
1
lầm bả chiêu hàng của triều đình Nhà Minh
sao Nguyễn Du thương quý Kiều đến thế?
thấy bao nỗi trần ai bất bình
Hải liều thân vẫy vùng sông bể
thành anh hùng trên lưng ngựa chiến chinh
rồi luỵ vì Kiều, lỏng giáp, tan binh
đến chết đứng, còn ngã ra vì dòng lệ
cũng của Kiều, với ảo vọng thường tình!
sao Nguyễn Du thương quý thế?
phải chăng Nguyễn Du rợn mình
thu thân trong xích xiềng vô hình hạn chế
sau bao tang thương tim bầm ruột xé
thấy triều đại nào cũng ma quỷ hiện hình?
phải chăng mãi mãi u minh
thế gian buồn như kinh kệ
mong siêu thoát cõi phù sinh
Nguyễn Du cùng hiện hữu loài người chưa thể?
nội loạn, đầu hàng, nhân dân nhẫn nhục, yên bình
ngoại xâm, đầu hàng, dân tộc mang gông nô lệ
hình tượng Hồ Tôn Hiến
và quan quân sâu mưu độc kế
trên đất nước Trung Hoa,
không phải lũ ngoại quốc viễn chinh!
câu trả lời phải chăng là thế?
đinh ninh, và đúng lẽ
2
sự thật lịch sử không như “Truyện Kiều” đã kể
chết gươm cắt đầu? chết sông trầm mình? (*)
dù Hải không là Mị Châu,
Hải anh hùng, xiêu lòng vì vợ trẻ?
dù Kiều không là Trọng Thuỷ,
Kiều giữ chút trung trinh?
nhưng “Truyện Kiều” là văn chương:
bi kịch thiên tài, số phận con người nhỏ bé
uất ức, thê thảm giữa trùng trùng điêu linh
trùng trùng tàn tệ
ước mơ tội nghiệp, chân tình...
Kiều tái sinh trong xích xiềng vô hình hạn chế
3
tự cứu và được cứu giữa cõi tồn sinh
Nguyễn Du cũng là “Truyện Kiều”,
là “Đọc kí Tiểu Thanh”,
sáng bừng trái đất: sâu xa, tinh tế
hàng trăm bài thơ “Đoạn trường tân kinh” (1)...
mượn chuyện nước người nói chuyện nước ta,
lấp loé, lung linh
viết phải lách, thuở đứng tim tránh né
để người đọc yên tâm ngâm to, ru khẽ
lục bát chữ Nam, sông sâu nghìn sóng rộng rinh
Đường luật chữ Tàu, trải lòng sau từng khung cửa hé
bi kịch Tiên Điền, thiên tài Việt kết tinh
4
đọc “Truyện Kiều” và những sách xưa lắm hệ
sử vênh nhau, văn khác sử...
phải phân minh!
để hiểu vì sao Nguyễn Du làm tiểu thuyết thơ,
thương quý hình tượng Hải - Kiều đến thế
và chữ nghĩa muôn đời xem khinh
trước ngoại xâm,
không ít kẻ đầu hàng,
nô lệ!
nhưng chẳng cách nào lương tri nín thinh
nếu người cầm bút ngày nay ngoảnh lại ngày xưa,
xuyên tạc sử, sử và văn không nhất thể
tác phẩm sử của tôi (2) mãi mở sáng lòng mình.
16: 10-12 – 10:11, 11-12 HB13 (2013)
(*) Theo một số tư liệu lịch sử thuộc loại cận chuẩn cứ, như “Hồ Tôn Hiến liệt truyện” (chưa phải “Minh thực lục”), “Trù hải đồ biên”: a) Từ Hải bị kế li gián của Hồ Tôn Hiến trước khi xiêu lòng bởi Thuý Kiều. Nhưng chính Thuý Kiều cũng bị Hồ Tôn Hiến mua chuộc, hứa hẹn để dụ hàng Từ Hải. Từ Hải chết do tự nhảy xuống sông tự vận ngay sau khi trúng kế li gián, dụ hàng của Hồ Tôn Hiến và bị Hiến đánh úp. Từ Hải bị cắt đầu (hay chém đầu) ngay dưới sông. Sử chính thống của triều Minh (Trung Hoa) không viết gì về cái chết của Thuý Kiều. Thật ra, Thuý Kiều không phải là một nhân vật quan trọng trong sự kiện lịch sử ấy, mà chỉ là một người bị lợi dụng để dụ hàng Từ Hải, và cũng không phải là người duy nhất bị lợi dụng trong việc dụ hàng đó. Vương Trực (hay Uông Trực, một thủ lĩnh thuộc hàng đàn anh của Từ Hải) đáng kể hơn. Và cái chết của Từ Hải chủ yếu là do Từ Hải bị sa vào kế li gián, nghi kị với Trần Đông, Ma Diệp… b) Về Thuý Kiều, Mao Khôn (1512-1601) là người đầu tiên viết hành trạng Thuý Kiều và về cái chết chính Kiều: Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Nhưng chi tiết này lại được viết trong một văn bản có nhan đề là “Sự tích Vương Thuý Kiều”, đặt trong quyển “Kí tiễu trừ Từ Hải bản mạt” của Mao Khôn (bản dịch Đào Duy Anh, 1958), với những chi tiết khác mà chắc chắn bản thân Mao Khôn cũng không phải tận mắt thấy, tận tai nghe. Quả thật, đó chỉ là sự tích mà thôi, đúng nghĩa của từ. Dư Hoài về sau, đầu triều Thanh (Trung Hoa), cũng viết là Thuý Kiều tự tử ở sông Tiền Đường, và cũng thế là hết truyện. Nhưng “Truyện Vương Thuý Kiều” trong “Ngu sơ tân chí” của Dư Hoài (bản dịch Thượng Chi Phạm Quỳnh, 12-1919) chỉ là một “bài truyện” (truyện kể ngắn) góp nhặt từ sự tích, có phần hư cấu… Xem: Thanh Tâm Tài Nhân, “Truyện Kim Vân Kiều”, bản dịch Nguyễn Khắc Hanh, Nguyễn Đức Vân, lời giới thiệu của Nguyễn Hữu Sơn, có phần tư liệu phụ lục (kể trên), Nxb. Hải Phòng, 12-1994.
(1) Ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, tôi gọi là “Đoạn trường tân kinh”.
(2) Trần Xuân An, “Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta” (2004), đã đăng kí bản quyền tại Cục Bản quyền tác giả. Đặc biệt là bốn đầu sách biên soạn, khảo cứu, khảo luận và truyện kí của tác giả Trần Xuân An về nhân vật lịch sử Nguyễn Văn Tường (1824-1886), với tư liệu chuẩn cứ là “Đại Nam thực lục chính biên” (ĐNTL.CB.), dưới ánh sáng khoa học, độc lập, tự chủ: “Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824-1886)”, truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử, (2003), Nxb. Văn Nghệ TP.HCM., 2004; “Nguyễn Văn Tường (1824-1886), một người trung nghĩa – khảo luận một vài khía cạnh sử học”, (2002), Nxb. Thanh Niên, 2006; “Tiểu sử biên niên phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824-1886), kẻ thù không đội trời chung của chủ nghĩa thực dân Pháp”, biên soạn từ ĐNTL.CB., (2000), Nxb. Thanh Niên, 2006; “Thơ Nguyễn Văn Tường (1824-1886) – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng”, biên soạn và khảo cứu, (1999), Nxb. Thanh Niên, 2008...
Bài 9
CUỘC ĐIỆN CHUYỆN TRÒ
- tặng nhà giáo N.P.T.N.C.V.
(đồng nghiệp cũ)
- nhớ những ngày 180C ở TP.HCM.
từ tuần hoa giữa trời cao
gọi thăm tôi, giọng thuở nào, dễ thương
nghe thanh ngọt nguồn sông Hương
trưa Đà Lạt bỗng toả sương Sài Gòn
ủ ngời, ba mươi năm hơn
sương ngôi trường thuở mình còn dạy chung
long lanh chuyện cũ, rưng rưng
thời trong trẻo, dẫu đâu từng cả tin
chưa hoa mùa con cưới xin
chưa hoa mừng thọ, nội vin sinh phần
gọi thăm, đánh thức mùa xuân
hoa tình bạn, mặc bão vần vũ xưa
hoa suốt tuần vẫn không thừa
nhưng còn thiếu đoá hoa chưa màu gì
nụ hoa gió, gió bay đi
nở trên trời ấy, sau khi xa rồi.
11:59 – 12:, 27-12 HB13 (2013)
& sáng 01-01 HB14 (2014)
Bài 10
ĐOÁ BÔNG
TRỪU TƯỢNG - HƯ VÔ
TÂM NGẮM ẢO
xưa tặng tờ giấy trắng
nhưng bảo: bức tranh hoa
hoa? trong veo, tĩnh lặng
nhắm mắt mới nhìn ra.
MẮT NGẮM ẢO
ánh sáng bay trong vắt
nở ra đoá cầu vồng
cả vòm trời vẫn chật
bảy màu nhưng hư không.
27-12 HB13 (2013)
& 01-01 HB14 (2014)